Thể hiện bi mẫn với người sắp qua đời bằng cách nào?
New Page 1
Nếu bạn có bạn bè hay người thân
đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ
thản nhiên với họ. Mọi người đồng ý rằng bạn nên khởi lòng bi mẫn. Vấn đề là,
cách lòng bi mẫn chuyển thành những hành động cụ thể thì lại không mấy giống
nhau. Đối với một số người, bi mẫn có nghĩa là kéo dài mạng sống càng lâu càng
tốt; nhưng đối với một số người khác, bi mẫn là chấm dứt đời sống - thông qua
việc trợ tử - khi mà phẩm chất đời sống của người bệnh không còn là bao. Và
không có ai trong hai nhóm này xem nhóm khác là có lòng bi mẫn thực sự. Nhóm
trước xem nhóm sau là tội phạm; còn nhóm sau xem nhóm trước là tàn nhẫn và độc
ác.
Với chúng ta, những người đang cố vượt qua ranh giới mịt mờ giữa hai thái cực
này, không có nhiều sự hướng dẫn đáng tin cậy. Văn hoá của chúng ta là văn hoá
không thích nghĩ về bệnh tật và chết chóc. Kết quả là, khi đối mặt với một người
nào đó lâm trọng bệnh hay sắp qua đời, chúng ta thường lúng tùng về những gì
phải nên làm. Có người khuyên bạn một cách đơn giản rằng là bạn nên làm những gì
cảm thấy đúng. Nhưng thế nào là cảm thấy đúng khi cảm giác vốn không dễ nắm giữ
và luôn rắc rối. Có những điều ta cảm thấy đúng đơn giản bởi vì chúng khiến ta
cảm thấy tốt, bất kể là chúng có thật đúng với người khác hay không. Một ước
muốn kéo dài đời sống có thể che dấu nỗi sợ hãi sâu sắc hơn về cái chết của
chính bạn; một mong muốn chấm dứt một căn bệnh đau đớn cùng cực có thể tương hợp
với nỗi đau đớn của bạn tại lúc phải chứng kiến khổ đau.
Đây là tại sao lời giáo huấn đơn giản rằng phải từ bi hay chánh niệm khi diện
kiến một người lâm trọng bệnh hay sắp qua đời là không đủ. Chúng ta cần sự trợ
giúp trong việc rèn luyện lòng bi mẫn của mình. Đó là những chỉ bảo cụ thể về
cách suy xét rốt ráo những hành động của chúng ta trong việc đối diện với đời
sống và cái chết, và những trường hợp cụ thể về việc người xưa đã quán chiếu
những vấn đề này như thế.
Với suy nghĩ này, tôi đã tìm kiếm khắp kinh tạng Pali, xem có thể rút ra được
những bài học gì từ trường hợp của đức Phật. Trước hết, đức Phật thường bảo rằng
Ngài giống như một vị lương y, và Pháp của Ngài như là thuốc cho những khổ đau
của cuộc đời. Theo cái nhìn của Ngài, tất cả chúng ta đều đang bệnh và sắp chết
ở một mức độ nào đó, vì thế tất cả chúng ta đáng được thương xót. Nhưng lời
khuyên mà vị lương y (đức Phật) đưa ra cho những người đang đối mặt với khổ đau
bởi bệnh tật và cái chết là gì? Ngài đã chữa trị cho người trần chịu khổ đau
bệnh tật vật lý và cái chết như thế nào?
Có thể các bạn đã biết câu chuyện này. Một lần, cùng với tôn giả Ananda, đức
Phật trông thấy một thầy tỳ-kheo bị bệnh không người chăm sóc đang nằm co ro
trong dơ bẩn. Sau khi tắm rửa cho thầy này, Ngài tập họp các tỳ-kheo khác lại,
khiển trách họ về việc bỏ rời pháp hữu, và khuyên họ bằng việc nhấn mạnh rằng:
“Những ai chăm sóc ta thì nên chăm sóc người bệnh.” Và Ngài quy định rằng những
thầy đang chăm sóc những pháp hữu bị bệnh được phép nhận những phần ăn đặc biệt,
để khuyến khích họ trong công việc và giúp họ bớt đi khó khăn. Luật tạng định ra
một xử phạt nhỏ cho vị tăng nào từ chối chăm sóc pháp hữu của mình bị bệnh hay
sắp qua đời, hay người bỏ mặc một vị tăng bị bệnh trước khi người bệnh này hồi
phục hay mệnh chung. Tuy nhiên, không thấy có xử phạt nào dành cho việc từ chối
hay bỏ đi việc điều trị y khoa cho người bệnh. Như vậy, giới luật không chuyển
tải thông điệp rằng không giữ lấy mạng sống là đang phạm phải một tội lỗi nào
đó. Tuy nhiên, một vị tăng cố tình kết thúc mạng sống của một người bệnh, cho dù
là vì lòng bi mẫn, sẽ bị trục xuất khỏi tăng đoàn và không bao giờ được phép
quay lại đời sống này; vì vậy việc trợ tử hay giúp người bệnh chết không đau là
không có mặt trong Phật giáo.
Điều này có nghĩa rằng, điểm trọng tâm là lòng bi mẫn chân thực có thể được sử
dụng ở đâu. Đức Phật đưa ra một vài hướng dẫn cho trường hợp này bằng việc xác
định thế nào một vị lương y lý tưởng. Bạn có đủ tư cách để chăm sóc người bệnh
nếu: (1) bạn biết cách chuẩn bị thuốc men; (2) bạn biết những gì có thể sử dụng
được cho việc điều trị bệnh nhân; (3) bạn nhiệt tình vì lòng bi mẫn chứ không
phải vì lợi ích vật chất; (4) bạn không bực bội với việc lau dọn đồ dơ bẩn do
đại tiểu tiện gây ra, hay đàm giãi và đồ nôn mửa; và (5) bạn khéo léo trong việc
khuyến khích bệnh nhận nghe pháp vào những thời điểm thích hợp.
Trong năm phẩm chất này, điều được thảo luận trong kinh tạng Pali là điều thứ
năm. Vậy những phẩm chất gì được xem là một bài nói Pháp hữu ích và từ bi đối
với một người đang lâm bệnh hay sắp qua đời? Còn những gì thì không?
Lại ở đây, những điều “không nên” tách ra khỏi những điều “nên”. Luật tạng thuật
lại trường hợp rằng, có vài thầy tỳ-kheo, khuyên một người đang bệnh nên tập
trung tư tưởng vào cái chết đang đến gần, với niềm tin rằng cái chết thì tốt hơn
trạng thái đau đớn của đời sống bệnh tật. Làm y theo lời khuyên của các thầy
này, người bệnh ấy đã qua đời; và đức Phật đã tẩn xuất các thầy này ra khỏi tăng
đoàn. Như vậy, theo cái nhìn của đức Phật, khuyến khích một người bệnh buông bỏ
đi đời sống, hay từ bỏ ý chí muốn sống thì không được coi là một hành động từ
bi. Thay vì cố gắng làm ngắn giai đoạn chuyển tiếp đến cái chết của người bệnh,
đức Phật tập trung vào việc giúp vị ấy thấu hiểu khổ đau và sự kết thúc khổ đau.
Điều này là bởi Ngài xem mỗi khoảnh khắc của đời sống là một cơ hội để thực hành
và nhận lợi ích từ Pháp. Có một nguyên tắc được nhiều người biết đến trong mọi
truyền thống thực hành thiền, rằng một thoáng quán chiếu về khổ đau của hiện tại
thì ích lợi hơn việc xem giây phút hiện tại với sự chán ghét và hy vọng về một
tương lai tốt hơn. Nguyên tắc này áp dụng vào lúc kết thúc đời sống, cũng như
vào bất cứ giai đoạn nào của đời sống. Thực tế, đức Phật khuyến khích các
tỳ-kheo cần luôn quán chiếu về cái chết như là điều có thể xảy ra bất cứ lúc
nào, cho dù khi sức khoẻ còn bình thường, để họ có một ý thức về tính cấp bất
trong việc thực hành của họ, và để họ giữ chánh niệm với giây phút hiện tại. Nếu
bạn biết xem mọi khoảnh khắc có thể là giây phút sau cùng của bạn, thì khi giây
phút sau cùng đến, bạn sẽ đối diện với nó có sự chuẩn bị.
Thường nhất, tuy nhiên, một người bệnh hay sắp chết thì không sống được với sự
tỉnh thức cần thiết này, vì vậy điều trước hết trong việc khuyên bảo một người
như vậy là hãy từ bỏ đi mọi chướng ngại cảm xúc để quay về hiện tại. Kinh điển
Pali nói đến hai sự chướng ngại: lo lắng về những trách nhiệm mà mình để lại, và
sợ hãi về cái chết. Có một bài kinh cảm động, kể về một người đàn ông sắp qua
đời, và vợ của ông đã an ủi ông là không nên lo lắng. Bà nói rằng bà có thể chu
toàn cho bản thân và con cái của họ khi vắng mặt ông; bà sẽ không tái hôn với
người đàn ông khác; và bà sẽ tiếp tục tu tập theo Pháp. Với mỗi lời hứa, bà lập
lại đoạn, “Vì vậy chớ lo lắng gì khi ông qua đời. Cái chết là khổ đau đối với ai
lo lắng. Đức Thế Tôn từng nhắc nhở rằng chớ có lo âu tại thời điểm sắp chết.”
Thật bất ngờ, người đàn ông này đã bình phục. Và trong khi vẫn còn rất yếu, ông
đã đi đến đảnh lễ đức Phật, thuật lại với Ngài những lời hứa của vợ ông. Đức
Phật nhân đó giải thích nhân duyên tại sao người đàn ông ấy có được sự may mắn
như vậy, khi gặp một người vợ khôn ngoan và đầy lòng từ mẫn.
Về nỗi sợ hãi cái chết, đức Phật lưu ý rằng một trong những lý do chính của nỗi
sợ này là ký ức về những điều gây tổn hại hay xấu ác mà bạn đã tạo ra trong quá
khứ. Vì vậy Luật tạng cho thấy rằng, các thầy tỳ-kheo thường an ủi một thầy đồng
tu sắp qua đời bằng việc yêu cầu vị ấy nhớ lại điều tích cực nhất - việc chứng
đạt thiền cao nhất của vị ấy – và tập trung suy nghĩ của vị ấy vào đó. Theo cách
tương tự, sự thực hành phổ biến ở những quốc gia Phật giáo ở châu Á là nhắc nhở
người sắp chết nhớ lại những việc làm bố thí hay những hạnh lành mà vị ấy đã
thực hiện trong đời sống này. Cho dù người ta không thể tập trung chánh niệm và
tỉnh giác cần thiết để đạt lấy một tuệ quán sâu hơn về hiện tại, thì bất kỳ bài
giảng Pháp nào mà nó giúp làm giảm đi những lo lắng và ngăn chặn những nỗi sợ
hãi là một hành động của lòng bi mẫn chân thực.
Tuy nhiên, đức Phật giảng giải rằng có thêm ba lý do khiến người ta sợ hãi cái
chết: chấp thủ vào thân xác, chấp thủ vào những lạc thú giác quan, và thiếu một
tuệ quán trực tiếp về Pháp không sinh diệt. Những chỉ dẫn của Ngài dành cho
người bệnh và sắp qua đời như vậy tập trung vào việc cắt bỏ những nguyên do sợ
hãi này tại căn gốc. Ngài đã từng viếng thăm một người bệnh và bảo các tỳ-kheo ở
đó hãy tiếp cận với niệm tử bằng sự chánh niệm và tỉnh giác. Thay vì tập trung
vào việc họ có bình phục hay không, họ nên quán sát những trạng thái cảm thọ mà
họ đang kinh nghiệm: đau khổ, dễ chịu, hay trung tính. Ví dụ, quán sát một cảm
giác khổ đau họ nên chú ý về tính không lâu bền của nó, và rồi tập trung vào
tiến trình tan biến liên tục của những cảm thọ khổ đau đó. Sau đó họ có thể áp
dụng sự tỉnh giác như vậy vào những cảm thọ dễ chịu hay trung tính. Kiên định
trong việc tập trung sẽ làm sanh khởi một tri giác thoát khỏi những cảm thọ giác
quan, và từ đây họ có thể phát triển sự tự tại và buông xả, đối với cả thân thể
và những cảm thọ. Vì rằng sự buông xả sẽ đưa đến một sự quán sát chân thực vào
Pháp mà nó sẽ chấm dứt tất cả những sợ hãi về cái chết.
Có một lần, Tôn giả Xá-lợi-phất viếng thăm vị thí chủ nỗi tiếng của đức Phật là
trưởng giả Cấp Cô Độc, khi ông sắp qua đời. Khi nhận thấy bệnh tình của trưởng
giả Cấp Cô Độc đang trở nên tồi tệ, tôn giả khuyên ông hãy tự kiềm chế, theo
cách “tôi sẽ không chầp thủ vào mắt; thức của tôi sẽ không phụ thuộc vào mắt.
Tôi sẽ không chấp thủ vào tai; thức của tôi sẽ không phụ thuộc vào tai,” và
tương tự như vậy đối với sáu giác quan và đối tượng của chúng, và bất cứ trạng
thái tâm nào tuỳ thuộc vào chúng. Mặc dù trưởng giả Cấp Cô Độ không thể phát
triển được ý thức không tuỳ thuộc này theo những hướng dẫn của tôn giả
Xá-lợi-phất, ông đề nghị rằng những chỉ dẫn này cũng cần trao cho những vị cư sĩ
khác, vì sẽ có những người hiểu được và có lợi ích từ những chỉ dẫn này.
Hiển nhiên, những chỉ dẫn này được dựa trên lời dạy của đức Phật về việc trạng
thái tâm của chúng ta ảnh hưởng đến tiến trình chết và tái sinh như thế nào,
nhưng điều đó không có nghĩa rằng chúng chỉ thích hợp cho những người tự nhận
mình là Phật tử. Bất kể tín ngưỡng tôn giáo của bạn là gì, khi bạn đối diện với
khổ đau bạn chắc chắn sẽ thấy giá trị của những lời chỉ dẫn mà chúng chỉ cho bạn
cách làm vơi giảm khổ đau bằng việc khám phá khổ đau ở bên trong. Nếu bạn có khả
năng thực hành những chỉ dẫn này, thì hãy thử thực hành theo. Và nếu bạn đạt
được sự Bất tử ngang qua nỗ lực của mình, bạn sẽ không còn bận tâm đến việc mình
là Phật tử hay không Phật tử.
Điều này được minh chứng bằng một câu chuyện khác cũng liên quan đến tôn giả
Xá-lợi-phất. Khi viếng thăm một vị Bà-la-môn cao tuổi sắp qua đời, tôn giả
Xá-lợi-phất nghĩ rằng các Bà-la-môn thường mong muốn được hợp nhất với Phạm
thiên, vì vậy thầy dạy cho ông lão này cách phát triển bốn thái độ của một vị
Phạm thiên - từ, bi, hỷ, xã vô lượng. Làm theo những chỉ dẫn này, vị Bà-la-môn
đã tái sanh vào cõi Phạm thiên sau khi qua đời. Tuy nhiên, đức Phật sau đó đã
khiển trách tôn giả vì thầy đã không dạy cho vị Bà-la-môn cách quán sát khổ đau,
vì nếu làm như vậy, vị Bà-la-môn sẽ kinh nghiệm được niết-bàn và hoàn toàn giải
thoát khỏi sinh tử.
Điều đáng chú ý về những chỉ dẫn này là rằng, từ cách nhìn của đức Phật, Pháp
cho người sắp qua đời không khác với Pháp được dạy cho người đang có sức khoẻ
bình thường. Nguyên nhân khổ đau ở trong mọi trường hợp là giống nhau, và con
đường đưa đến sự kết thúc là cũng giống nhau: hiểu rõ khổ đau, đoạn trừ nguyên
nhân, nhận ra sự chấm dứt của nó, và phát triển những đặc tính tâm mà chúng đưa
đến sự chấm dứt đó. Khác nhau duy nhất là rằng trạng thái cận kề cái chết khiến
cho việc giảng Pháp vừa dễ hơn lại vừa khó hơn. Dễ hơn bởi vì người bệnh đã
thoát khỏi những trách nhiệm ngoại tại và có thể thấy rõ sự cấp thiết trong việc
thấu hiểu và giải thoát khổ đau; khó hơn bởi vì bệnh nhân có thể quá suy yếu về
cả thể lực và ý chí, do vì sợ hãi và lo âu, để áp dụng những chỉ dẫn vào trong
thực hành.
Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi - cả nơi việc quán sát những vị thầy của tôi đã
thực hiện những chỉ dẫn này và cả nơi việc nỗ lực thực hiện chúng cho bản thân –
tôi đã học được hai bài học quan trọng. Thứ nhất, những bệnh nhân thích hợp nhất
cho việc thực hiện Pháp khi lâm bệnh hay lúc sắp qua đời là những người không
khổ đau với những ký ức về những điều gây hại và xấu ác mà họ đã làm trong quá
khứ, và những người đã có tiến bộ trong thực hành thiền trước thời điểm họ bị
bệnh. Cho dù người thực hành đó không phải là Phật tử, bằng trực giác họ cảm
nhận được thông điệp của đức Phật về khổ và có thể sử dụng thông điệp đó làm
giảm đi những khổ đau của chính họ. Bài học ở đây là rằng nếu bạn biết bạn sẽ
chết vào một ngày nào đó, bạn sẽ tránh làm những điều xấu ác và bắt đầu thực
hành thiền cho chính mình, để sẵn sàng đón nhận bệnh tật và cái chết khi chúng
đến. Như vị thầy của tôi, ngài Ajaan Fuang, đã từng nói, khi bạn thực hành thiền
là bạn đang thực hành cách để chết – cách giữ chánh niệm và tỉnh giác, cách làm
giảm khổ đau, cách kiểm soát những suy nghĩ luôn thay đổi và có thể đạt đến sự
Bất tử - để khi thời điểm cận kề cái chết, bạn sẽ có kinh nghiệm để thực hành
nó.
Bài học thứ hai là rằng nếu bạn muốn giúp người khác vượt qua sự sợ hãi về cái
chết, bạn cũng phải học cách vượt qua nỗi sợ hãi của bạn về cái chết, bằng việc
từ bỏ sự thủ chấp vào thân xác, từ bỏ sự thủ chấp vào những thú vui giác quan,
tránh làm những điều xấu ác, và có một tuệ quán về sự Bất tử. Với việc vượt qua
nỗi sợ của chính mình, bạn sẽ có ảnh hưởng tích cực hơn trong việc giảng Pháp
cho người sắp qua đời. Bạn sẽ không bối rối trước cái chết. Bạn có thể truyền
đạt trực tiếp những điều cần thiết cho người sắp chết, và những lời của bạn sẽ
có trọng lượng hơn, vì chúng đến từ kinh nghiệm trực tiếp. Lòng bi mẫn của bạn
được huấn luyện không phải bằng sách vở hay cảm giác, mà bằng một tuệ quán sáng
suốt về những gì chết và những gì không chết.
Cuối cùng, hai bài học này hợp lại thành một: hành thiền, như là một hành động
bi mẫn đối với chính bạn và với cả người khác, dù khi cái chết dường như còn ở
rất xa. Khi thời điểm chết cận kề, bạn sẽ giảm đi gánh nặng cho những người đang
quan tâm đến bạn. Đồng thời, nếu bạn được mời đến trợ giúp những người lâm trọng
bệnh hay sắp qua đời, lòng bi mẫn của bạn sẽ thật sự hữu ích hơn, và bạn sẽ có
một thông điệp hữu hiệu hơn để truyền đạt.
Tỳ-kheo Thanissaro -
Nguyên Hiệp dịch