Nói chuyện với các bạn sinh viên về Phật giáo Huế

PHẬT GIÁO HUẾ

và AM TRANH GIỮA LƯNG ĐỒI

(Bài pháp thoại cho các Giảng viên, Sinh viên Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa, tại thiền đường Trăng Rằm, Từ Hiếu-Huế ngày 16.08.2004)

THÍCH THÁI HÒA

Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật

Thưa quý thầy, cô giáo cùng tất cả anh chị em sinh viên khoa Văn trường Đại học Hồng Đức – Thanh Hóa quý mến,

Hôm nay là ngày 16.8.2004, tại Thiền đường Trăng Rằm, chùa Từ Hiếu, tôi đáp ứng lời yêu cầu học hỏi và nghiên cứu của quý vị, nên xin chia sẻ đến quý vị bài pháp thoại ngắn gọn sau đây.

Thưa quý vị!

Người ta có thể đặt ra những đề tài nghiên cứu như:  Phật giáo Huế có từ khi nào? Ai là vị Tăng sĩ đầu tiên có mặt tại Huế? Phật giáo Huế đã ảnh hưởng đến dân Huế như thế nào? Và đã đóng góp cho Phật giáo Việt Nam và đất nước như thế nào? Đó là những câu hỏi rất lớn, những đề tài nghiên cứu rất lớn. Nó không chỉ mang tầm cỡ quốc gia mà còn mang tầm cỡ quốc tế. Sinh viên các nước đã về Huế để nghiên cứu những đề tài như vậy. Chúng tôi đã giúp cho họ, chia sẻ cho họ. Các nhà nghiên cứu Anh và Mỹ và các nước trên thế giới cũng đã đến Huế, và đến đây đặt những câu hỏi như thế. Chúng tôi cũng đã chia sẻ cho họ để họ làm luận án tiến sĩ về Phật học Đông phương. Bây giờ, quý vị đến ở đây để học hỏi và nghiên cứu, trong thời gian ngắn ngủi này, chúng tôi xin chia sẻ những điểm then chốt như sau: Phật giáo Huế có mặt từ khi công chúa Huyền Trân được vua Trần Nhân Tông gả cho vua Chàm. Vua Chàm nhường lại hai châu Ô và Rí cho đất nước chúng ta lúc bấy giờ. Như vậy, Phật giáo Huế có mặt ở thế kỷ 14. Vị Tăng sĩ đầu tiên có mặt trên đất Huế này chính là vua Trần Nhân Tông, tức Điều Ngự Giác Hoàng. Giáo lý ảnh hưởng đến Phật giáo Huế nhiều nhất, là giáo lý nhập thế đời Trần. Nói theo cách nói của các Nhà sử học là “hòa quang đồng trần”. Hòa quang đồng trần tức là đem ánh sáng của Chánh pháp  hòa nhập vào cõi đời bụi bặm này, để thăng hoa cõi đời bụi bặm này theo chiều hướng thánh thiện và tốt đẹp. Đó là một trong những nét mà Phật giáo Huế đã ảnh hưởng. Cho nên, Phật giáo Huế mang nội dung của Phật giáo Đại thừa. Và vì mang nội dung Đại thừa, nên Phật giáo Huế mang tính tổ chức rất giỏi. Tổ chức từ trung ương cho tới hạ tầng cơ sở. Đơn vị thấp nhất của Phật giáo Huế, theo ngày trước là đơn vị chúng, tương đương với đơn vị hành chánh ở đời là tổ. Sinh hoạt chúng, ngoài đời gọi là sinh hoạt tổ. Vức tương đương với khu vực. Khuôn hội tương đương với làng. Trong một xã có nhiều khuôn hội, nhiều Niệm Phật đường, nhiều đơn vị ở trong nhiều vùng, sinh hoạt Phật giáo liên kết nhiều xã như thế, nên Phật giáo trở thành Phật giáo cấp huyện. Và nhiều cấp huyện, trở thành Phật giáo cấp tỉnh; nhiều cấp tỉnh trở thành Phật giáo toàn quốc hay trung ương. Tất cả những điều đó bắt nguồn từ Phật giáo Huế này, bởi vì Phật giáo Huế đứng đầu trong các tổ chức. Từ đó ảnh hưởng ra phía Bắc và vào phía Nam.

Phật giáo Huế là một tập hợp của các phái Thiền, Tịnh độ, Mật tông, Luật tông và Giáo học tông. Thiền tông tức là tông phái nhắm tới làm chủ thân tâm để đạt đến kiến tánh mà thành Phật, nên Thiền tông phát huy tối đa nguồn năng lực ý thức, tự chủ, tự lập. Tịnh độ tông là tông phái mang hai nội dung vừa tự lực và tha lực. Tự lực tức là tự biết rằng, mình có Phật tính và tâm mình có khả năng thiết lập Tịnh độ. Tha lực tức là tin tưởng ngoài thế giới này còn có vô số thế giới khác, ngoài cảnh giới này còn có vô số cảnh giới của chư Phật khác. Thí dụ, thế giới Tịnh độ ở phương Đông của đức Phật Bất Động; thế giới Tịnh độ ở phương Tây của đức Phật A Di Đà…, theo kinh A Di Đà, thì cõi Tịnh độ phương Tây, cách cõi chúng ta ở đây mười muôn ức cõi Phật. Con đường để đi vào Tịnh độ có hai: niệm Phật - niệm bằng cách trì danh hoặc niệm bằng cách quán chiếu, mà mục đích của nó là đạt đến nhất tâm. Khi mình đạt đến tâm thuần nhất rồi, thì không cần sanh về Tịnh độ ở đâu cả, mà Tịnh độ đang có ngay đây và bây giờ. Đó là điểm tích cực của Phật giáo Tịnh độ. Khi thấy được điểm tích cực đó, thì người tu Tịnh độ phải phát khởi hạnh nguyện rộng lớn để cứu giúp đời và xây dựng quê hương Tịnh độ, tùy theo hoàn cảnh thực tế của mình. Đó là những điểm tích cực và then chốt của Phật giáo Tịnh độ.

Khi chúng tôi trình bày cho quý vị như vậy, nếu quý vị có cơ hội học hỏi thêm, thì quý vị phải hỏi là Tịnh độ thiết lập dựa trên nền tảng của các kinh điển nào và các luận nào của Phật giáo? Và ai là người đứng ra thiết lập Tịnh độ đầu tiên từ Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam. Giáo lý đó ảnh hưởng như thế nào về mặt xây dựng tín ngưỡng cho quần chúng và mặt chính trị của xã hội. Giáo lý đó giúp gì cho xã hội về mặt phát triển kinh tế. Giáo lý ấy có giúp được gì cho nền văn minh tin học hiện nay và sự khủng hoảng tâm lý của con người trong thời đại của chúng ta không. Đó là những đề tài cần được đặt ra để nghiên cứu. Vì chúng ta chỉ gặp nhau trong vòng ba  mươi phút, nên không đủ thời gian để nói một cách chi tiết . Do đó, chúng tôi chỉ giới thiệu và gợi ý như thế để quý vị có được khái niệm và suy nghĩ.

Mật tông là giáo lý ảnh hưởng tại Việt Nam rất sớm. Quý vị là những sinh viên khoa văn và cũng có học qua khoa sử,  thì quý vị thấy, ở Việt Nam, Mật giáo đã ảnh hưởng rất lớn vào thời Đinh Tiên Hoàng, tiếp sau đó là Đinh Vương Liễn. Vào thập niên 60, các nhà khoa học khảo cổ tại Hà Nội đã khám phá những trụ đồng, những trụ đá mà trên đó có khắc những câu thần chú của kinh Phật ở thành Cổ Loa. Nói như vậy, để quý vị biết rằng, Mật tông đã ảnh hưởng đến Việt Nam rất sớm, có thể là vào những thế kỷ đầu . Ngôi chùa Pháp Vân ở Thuận Thành, Hà Bắc là một trong những ngôi chùa có mặt sớm nhất tại Việt Nam vào những thế kỷ đầu. Ngôi chùa đó gắn liền với những huyền thoại Mật tông liên hệ đến các ngài Ma Ha Kỳ Vực, và Khâu Đà La với câu chuyện Man Nương vào cuối thế kỷ hai Tây lịch. Cho nên, quý vị cố gắng quan tâm đến lịch sử một chút để nghiên cứu. Chúng tôi chỉ giới thiệu như thế. Mật tông đã ảnh hưởng suốt chiều dài lịch sử cho đến đời Đinh, đời Lý. Ở đời Lý có Thiền sư Từ Đạo Hạnh liên hệ với vua Lý Thần Tông. Đến đời Trần thì Mật tông cũng phát triển rất mạnh, nhất là vào thời ngài Huyền Quang đệ Tam tổ Trúc Lâm Yên Tử, cho nên Phật giáo Huế cũng ảnh hưởng Mật tông từ đời Trần. Và hiện nay, Mật tông vẫn còn ảnh hưởng trong nếp sinh hoạt của Phật giáo Huế.

Giáo lý Mật tông là gì? Mật tông chủ trương thực tập nhìn toàn thể vũ trụ bằng mantra (mandala). Nhân sinh quan và vũ trụ quan của Mật tông rất cụ thể, nếu quý vị có cơ hội thì có thể nghiên cứu về vũ trụ quan và nhân sinh quan của Mật tông. Cách giải quyết nhân sinh quan của Mật tông như thế nào? Đó là một câu hỏi cần đặt ra để tiếp tục nghiên cứu. Mật tông không chỉ đơn giản như người ta hiểu là những câu chú và những ấn chú. Thường thường trong các khóa lễ đặc biệt, quý thầy bắt ấn chú và chúng ta cho đó là ảnh hưởng Mật tông. Đó chỉ là một khía cạnh biểu hiện của Mật tông mà thôi; hoặc những câu chú như “Án ma ni bát di hồng”, khi đọc lên như vậy mình gọi là thần chú Mật tông, nhưng thực ra không đơn thuần như vậy. Nó có triết lý sâu thẳm ở bên trong mà mình cần phải đặt vấn đề để nghiên cứu. Phật giáo Huế ảnh hưởng rất nhiều về giáo lý Mật tông, và không có chùa Huế nào là không hành trì Thần chú Lăng Nghiêm vào thời công phu khuya.

Giáo tông tức là giáo lý có hệ thống, ví dụ như chú tiểu thì học giáo lý ở trình độ nào, chú sa di thì học giáo lý ở trình độ nào, thầy thì học giáo lý ở trình độ nào; cấp Tiểu học học Phật như thế nào, cấp Trung học học Phật như thế nào, cấp Đại học thì học Phật như thế nào. Tất cả đều có chương trình học tập được phân khoa rõ ràng. Thí dụ Đại học Phật giáo thì học cái gì, học tiến sĩ Phật học thì học cái gì và chương trình hậu tiến sĩ là gì. Tất cả đó đều có hệ thống và mang tính khoa giáo. Các Phật học đường và Phật học viện đã có mặt rất sớm tại Huế. Và các Danh tăng Việt Nam cận đại và hiện đại phần nhiều là xuất thân từ các chùa viện tại Huế.

Và cuối cùng là Luật học của Phật giáo. Ở Huế cũng ảnh hưởng tinh thần Luật học Phật giáo. Luật học Phật giáo có mặt trên đất nước Việt Nam có thể vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên và muộn lắm là vào những thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3. Hễ có Tăng sĩ là có Luật học. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương là bản kinh được hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch sang Hán văn vào thế kỷ đầu, đã được lưu hành tại Việt Nam vào những thế kỷ đầu, trong đó đã có đề cập đến giới luật cần phải hành trì của cư sĩ và Tăng sĩ. Chúng ta có rất nhiều tư liệu nói về luật học, như chuyện thọ giới của ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ ba Tây lịch.

Luật học là gì? Là nêu lên những vấn đề đạo đức của Phật giáo. Trong đạo đức đó, luật nêu rõ thế nào là đạo đức, thế nào là phi đạo đức. Giới luật là nêu lên đạo đức của Phật giáo, khuyến khích người ta thực tập, quy định thế nào là thiện, thế nào là không phải thiện, thế nào là ác, thế nào là không phải ác, thế nào là làm đúng, thế nào là làm sai, những điều như vậy, luật đều quy định rõ ràng. Khi một người thường được gọi là một Phật tử, họ phải thọ tam quy ngũ giới, và phải tuân thủ vào những điều giới luật nhất định, để khẳng định họ là Phật tử. Giới là căn bản đạo đức, luật là sự phân định thế nào là giữ giới đúng và thế nào là giữ giới không đúng. Sau này luật học Phật giáo ảnh hưởng đến trong đời sống xã hội Việt Nam. Ví dụ, hiếu kính thuộc về đạo đức Phật giáo. Nó có gốc rễ từ giới luật của Phật giáo Đại thừa. Hiếu kính là giới, là đạo đức tự nhiên của con người, là đạo lý của con người và nó trở thành  nếp sống của con người và nếp sống ấy đã ảnh hưởng đến con người Việt Nam nói chung và người Huế nói riêng.

Chúng tôi đã giới thiệu cho quý vị về sự ảnh hưởng của Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Giáo học và Luật học là như thế nào rồi. Bây giờ chúng tôi trả lời câu hỏi mà quý vị đã hỏi: Tổ đình Từ Hiếu có từ khi nào, do ai thiết lập và sự có mặt của nó ảnh hưởng như thế nào trong quá khứ cũng như hiện tại.

Tổ đình Từ Hiếu được xây dựng đầu tiên vào năm 1843 Tây lịch. Bước đầu chỉ là một cái Am tranh, An Dưỡng am, do Thiền sư Nhất Định xây dựng, tức là vị quốc sư thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị. Thiền sư Nhất Định là một người nổi tiếng về trí đức, được vua Minh Mạng mời về làm Tăng cang Linh Hựu Quán (ở Đại Nội), và sau đó làm Tăng cang ở Giác Hoàng Quốc Tự (ở Đại Nội). Chùa Giác Hoàng là gì? Sao gọi là Giác Hoàng Quốc Tự? Hoàng là vua, giác là giác ngộ. Chùa là nơi vua và triều đình của nhà vua đến đó học tập và tu luyện theo giáo pháp của đấng Giác ngộ,  nên gọi là chùa Giác Hoàng. Chùa đó được lập vào thời Minh Mạng. Chính vua Minh Mạng mời Thiền sư Nhất Định về làm Tăng cang, mà Thiền sư trước đó đã là Trú trì chùa Báo Quốc (Thiên Thọ tự) ở Núi Hàm Long, Huế.

Tăng cang là gì? Tăng là chúng Tăng, cang là cương, sợi dây, cương lĩnh. Cho nên, Tăng cang là vị Tăng sĩ nắm giữ cương lĩnh trong hàng ngũ Tăng sĩ Phật giáo và có khả năng giúp cho triều chính bình ổn  và phát triển  xã hội. Quý vị có khi nào nghe chữ  Tăng cang chưa?

- Dạ, chưa ạ!

Nếu chưa, thì quý vị hãy để tâm nghiên cứu lịch sử rồi cũng sẽ hiểu. Thiền sư Nhất Định được mời làm Tăng cang, làm quốc sư để dạy giáo lý giác ngộ cho triều đình. Khi hơn  sáu mươi tuổi, ngài muốn tịnh tu và không muốn làm quốc sư nữa. Cho nên, Ngài viết đơn để xin vua nghỉ và đồng thời giao lại công việc Trú trì chùa Báo Quốc cho sư đệ của mình là Nhất Niệm để lên đây, tức là chùa Từ Hiếu hiện nay, để lập thảo am tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già. Ngài rất có hiếu với mẹ. Vì mẹ bệnh, Ngài phải đi bộ xuống chợ để mua cá về nấu cho mẹ ăn.

Nơi đây, trước kia là rừng núi hoang vu, có nhiều loài thú dữ như cọp, beo… Bây giờ, quý vị tới đây thấy khác nhiều có phải không? Đường sá được mở ra rất rộng rãi, thoáng đãng.

Khi ngài Nhất Định (1784 – 1847) mua cá về nấu cho mẹ thì triều đình nghĩ rằng, ông thầy tu này hư hỏng quá và thắc mắc tại sao ông thầy tu này lại làm như thế. Người dân cũng xôn xao bàn tán. Triều đình cho người đi dò thám để xem sự thật hư thế nào. Người dân cũng theo dõi Ngài. Cuối cùng triều đình và người dân vỡ lẽ khi khám phá ra rằng, Ngài chỉ nấu cho mẹ ăn thôi, chứ chính Ngài vẫn sống nghiêm túc, ăn chay và ở trong một am tranh giữa núi rừng để nuôi mẹ. Và từ đó gương hiếu hạnh của ngài được cả triều đình và người dân biết đến và kính phục. Đến thời Tự Đức, vua nghe được câu chuyện thiền sư Nhất Định nuôi mẹ liền cảm động. Đến đời Thiền sư Cương Kỷ (1810 – 1898), đệ tử của thiền sư Nhất Định làm Trú trì, thì chùa mới được xây dựng quy mô như thế này. Vua Tự Đức cảm phục câu chuyện hiếu thuận đó, cho nên vua mới sắc phong chùa là Từ Hiếu. Từ Hiếu tức là người con có hiếu với từ mẫu. Vua Tự Đức có viết rằng, ở đời này không có gì quý hơn hiếu. Từ là hạnh của Phật và Thánh; hiếu là hạnh căn bản của con người. Cho nên, con người có hiếu hạnh thì con người đó học theo hạnh của Thánh. Bởi vì chỉ có bậc Thánh mới rãi lòng từ xuống cho mọi người mọi loài. Ở trong đời, người con có hiếu thì luôn nghĩ đến ân đức của cha mẹ, của những người lớn. Do đó, ý nghĩa Từ Hiếu bắt đầu từ đó, chính Từ Hiếu như vậy, mới ảnh hưởng đến mọi tầng lớp trong xã hội. Ngài Cương Kỷ đã cho khắc những bản kinh trên gỗ như kinh Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh, kinh Vô Lượng Thọ, Pháp Bảo Đàn kinh,… để phát huy tinh thần hiếu nghĩa và hiếu kính cho con người, cho xã hội. Những bản khắc gỗ ấy, hiện vẫn còn lưu giữ tại chùa như là những bảo vật.

Quý vị thử nghĩ, ở giữa đời này cái đẹp nhất, cái dễ thương nhất, đó chính là Hiếu; cái dễ ghét nhất, cái xấu nhất là bất hiếu, có phải không quý vị?

- Dạ phải.

Không thể nói rằng, mình là nhà đạo đức mà chính mình lại bất hiếu với cha mẹ của mình được. Bởi vì mình có đạo đức hay không, thì xã hội sẽ nhìn vào bản thân mình, nhìn vào cách đối xử của mình ở trong gia đình mình. Nếu mình là một người con bất hiếu với cha mẹ, thì mình không thể hiếu với ai giữa cuộc đời nầy được hết và mình cũng chẳng có đạo đức gì với ai được hết, có phải không quý vị?

Cho nên, hiếu là căn bản đạo đức của con người. Nó phải được thiết lập cụ thể ở trong đời sống gia đình, đối với cha mẹ mình. Bởi vì trong xã hội, cha mẹ là tiếng gọi cao quý nhất, thân thương nhất, quý báu nhất của con người. Vì vậy mà Từ Hiếu ảnh hưởng về mặt hiếu nghĩa, nhân nghĩa ở trong xã hội. Cụ Nhiếp chính Đại thần Tôn Thất Hân, vào thời  vua Khải Định và Bảo Đại, đã thường lui tới chùa Từ Hiếu để học đạo và đã cảm mến đức độ của Hòa thượng Chơn Thiệt (1884 – 1968), nên ông đến đây xin quy y làm đệ tử của Ngài, và làm con cháu của Tổ đình Từ Hiếu. Sau đó chính cụ Tôn Thất Hân đã lập ra chùa Phò Quang ở thôn Ngũ Tây, huyện Hương Thủy - Huế để phụng thờ cha mẹ và dòng dõi của mình. Lăng của cụ hiện đang ở trong khuôn viên chùa Phò Quang. Cho nên, ca dao Việt Nam mới có câu “xây lăng thờ mẹ, dựng chùa thờ cha”.

Chữ Hiếu nghĩa đi từ nơi đó. Từ đó về sau có cụ Đặng Huy Trứ, Nguyễn Đăng Giai, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền…, tất cả những nhà chí sĩ như thế một thời đã lui tới chùa Từ Hiếu để học đạo, học cách xây dựng đất nước và nhất là làm cách nào để giành lại độc lập cho đất nước. Trong quá khứ Tổ đình Từ Hiếu là nơi phát xuất nhiều danh tăng cho Phật giáo Việt Nam, và Tổ đình Từ Hiếu hiện nay như thế nào? Hiện nay Tổ đình Từ Hiếu có hơn 80 vị Tăng sĩ đang tu học tại đây. Ở đây kết hợp giữa Thiền và Tịnh độ tông một cách uyển chuyển và linh hoạt, đi đầu trong các thời khóa tụng kinh điển bằng Việt hóa hằng ngày và vẫn tiếp tục Nông thiền, tạo ra nguồn lương thực chủ động.

Vị trú trì chùa Từ Hiếu hiện nay là Thiền sư Nhất Hạnh đang lưu trú tại làng Mai, Pháp quốc. Ngài có ảnh hưởng rất lớn trong tầng lớp trí thức của xã hội phương Tây. Ngài đã giúp cho thanh niên nam nữ phương Tây ổn định lại gia đình, ổn định lại giữa mình với xã hội. Đó là những nét mà chúng tôi giới thiệu một cách tổng quát để cho quý vị có thể có khái niệm.

Hy vọng vấn đề mà chúng tôi đặt ra, quý vị sẽ xem đó là những đề tài nghiên cứu của mình, dù quý vị là sinh viên khoa văn hay là sinh viên khoa sử. Mong tất cả quý vị có suy nghĩ đúng đắn về Phật giáo, suy nghĩ về sự đóng góp của Phật giáo trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam cũng như hiện nay.

       - Sau sự chia sẻ của TT Thái Hòa, vị giáo sư, đại diện các sinh viên Hồng Đức ở Thanh Hóa,  tiếp  lời:

Thưa các thầy cô giáo, các anh chị em sinh viên thân mến!

Trong khoảng thời gian ba mươi phút, Sư thầy Thái Hòa đã giới thiệu cho chúng ta lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam, Phật giáo xứ Huế, đặc biệt là chùa Từ Hiếu cho chúng ta hôm nay, ngồi tại đây, xin thay mặt cho các thầy cô giáo và các sinh viên xin cám ơn nhà chùa, sư thầy Thái Hòa!

Các em biết rằng, trong các tôn giáo, đạo Phật là đạo rất gần gũi trong đời sống hàng ngày của chúng ta và có trong mỗi chúng ta những câu triết lý như là: ở hiền gặp lành, cứu nhân độ thế, Từ bi bác ái,… Đó là triết lý của nhà Phật. Là những sinh viên khoa học xã hội, các em đã được sư thầy bổ túc thêm những kiến thức về đạo Phật. Các em biết rằng, trong những thời kỳ chống ngoại xâm, Phật giáo Việt Nam nói chung, và Phật giáo xứ Huế nói riêng, và chắc cả chùa Từ Hiếu của chúng ta đây, cũng đã đóng góp một phần trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, qua báo chí và những thông tin, chúng tôi được biết như thế. Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn và chúc nhà chùa, chúc sư thầy khỏe mạnh.

- TT.Thái Hòa: Thưa quý thầy quý cô cùng các anh chị em sinh viên, hôm nay chúng ta rất may mắn sống trong một đất nước không còn chiến tranh và đang từng bước đổi mới để phát triển. Sự giao lưu quốc tế ngày càng đơn giản hóa và cụ thể hóa, nhất là nền văn minh tin học. Cho nên, mình là người Việt Nam, mình không biết gốc rễ của người Việt Nam, không biết được tôn giáo của Việt Nam, không biết nền đạo lý Việt Nam là một thiệt hại. Vì sao? Vì cách đây hai tuần, tôi đã nói chuyện với những Giáo sư và sinh viên đến từ các trường Đại học ở Mỹ và Anh. Họ đã đến đây để nghiên cứu Phật giáo, về văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam. Giới trẻ của chúng ta trong tương lai cũng sẽ đi giao lưu với quốc tế như thế, hoặc như giao lưu ở Hội Khỏe Phù Đổng vừa qua chẳng hạn.

Nếu ta không biết văn hóa của Việt Nam, tôn giáo của Việt Nam, nền đạo đức Việt Nam thì đó là một thiệt thòi về mặt trí thức của chúng ta và chúng ta không làm vinh danh cho đất nước của chúng ta được. Cho nên, quý vị phải học tập một cách khách quan và thông minh, để chúng ta có thể đóng góp cho đất nước chúng ta vào thế kỷ 21 này. Ngày trước chúng ta cầm súng để ra chiến trường đánh giặc, nhưng bây giờ súng vứt cả rồi, không cần thiết nữa đâu. Chúng ta cần cầm tư tưởng và đạo đức để đi vinh danh cho đất nước chúng ta, đó là điều các bạn cần phải lưu ý.

Chắc chắn các bạn đã thấy rồi, làm kinh tế bây giờ không ai đi đưa lưng cho trời, cúi mặt cho đất nữa đâu, mà làm kinh tế bằng chất xám, bằng kinh tế vĩ mô. Cho nên quý vị phải lưu ý điều đó. Chúng tôi tin tưởng vào sự nỗ lực dạy dỗ của các thầy, các cô ở Đại học Hồng Đức - Thanh Hóa đối với các thế hệ sinh viên trẻ. Chúng tôi tin tưởng vào tinh thần hiếu học của các anh chị em sinh viên. Chúng ta học tập không mỏi mệt, học không nhàm chán. Đừng bao giờ thỏa mãn với sở học của mình, như người xưa nói “học hải vô nhai”, biển học không có ngằn mé. Càng học càng thấy mình kém cỏi đi. Người nào càng học mà thấy mình ngu đi thì người đó có cơ hội tiến bộ. Người nào học mà thấy mình thông minh ra, giỏi ra thì người đó đi gần đến chỗ ngu muội, bảo thủ và tự tiêu hủy khả năng.

Một lần nữa, xin cầu chúc quý thầy cô và các anh chị em sinh viên thành công trong mọi lĩnh vực của sự học tập để phụng sự con người và đất nước.¡

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle