Tiếng trống chùa

TIẾNG TRỐNG CHÙA

 

Vĩnh Hảo

 

 

Hồi mới ở tù ra, vì không đi trình diện chính quyền địa phương nên tôi cũng chẳng đi đâu ra khỏi nhà. Nhưng gần đến giao thừa thì nẩy ý đi chùa.

Ở Nha Trang thì chùa chiền đâu có thiếu. Không những nhiều chùa mà có thể nói rằng chùa nào cũng có thầy hay cô quen biết. Vậy mà tôi không chọn chùa gần, cũng không chọn chùa Hải Đức là ngôi chùa năm xưa tôi xuất gia. Tôi chọn chùa Linh Sơn ở Cầu Dứa. Tôi cùng hai đứa em trai đi bộ lên chùa này. Cũng khá xa. Độ chừng năm cây số.

Chùa Linh Sơn lúc ấy do thầy Tâm Hải thừa lệnh thầy bổn sư, nhậm chức trụ trì. Thầy Tâm Hải là bạn thân cũ của tôi. Ngoài thầy trụ trì Tâm Hải là chỗ quen biết còn có bạn học cũ và bạn cộng sự cũ là quý thầy Tâm Hòa, Tâm Tường, Thông Trí. Có lẽ do thâm tình đó mà tôi chọn chùa Linh Sơn để đón giao thừa.

Chúng tôi đến chùa trước mười một giờ đêm. Phật tử đón giao thừa ở đây không nhiều, chỉ dăm ba người. Có lẽ vì chùa nằm ở làng quê, sâu hút trong vùng ruộng với những khúc đường quanh tăm tối không điện đường, nên ít người dám đến. Giờ lễ giao thừa thầy Tâm Hải đưa tôi cái áo tràng, nói:

"Chút nữa thỉnh dùm chín hồi chuông bát nhã nghe. Tôi thích nghe cái roi trống của ông lắm." (thầy Tâm Hải vẫn thường dùng chữ ông để nói chuyện thân mật với bạn đạo nhỏ tuổi hoặc thấp vai hơn mình)

Những năm còn ở chùa Già Lam, thầy trụ trì cũng bảo tôi thỉnh trống Bát Nhã vào những dịp lễ lộc. Đâu phải quý thầy quý chú khác không biết thỉnh trống Bát Nhã. Tôi biết có nhiều vị mạnh tay và chuyên nghiệp nghi lễ hơn tôi nhiều. Vậy mà quý thầy cứ đùn qua cho tôi công việc đó. Có lẽ thầy ấy thấy trong roi trống của tôi hãy còn cái vẻ dịu dàng, cẩn trọng, không quá mạnh tay, phát tiếng vừa phải, dễ chịu giống như đang trân trọng giữ gìn cái gì quý báu. Không phải chỉ quí cái trống với mặt da của một con trâu hay con bò đã để lại dấu tích hư huyễn của chúng trên đời, mà tôi còn quí từng tiếng trống phát ra. Tôi muốn mỗi tiếng đều là một thanh âm tròn vẹn, ấm, và mang cả sức mạnh lay chuyển tận gốc rễ tâm hồn của người nghe, mà trước hết là chính tôi: kẻ thỉnh trống.

Tiếng trống chùa lạ lắm. Cũng là da trâu, da bò, cũng là thùng gỗ, dùi trắc. Vậy mà tiếng trống đám ma, trống làng, hay bất cứ thứ trống nào trên đời cũng không phát lên được tiết điệu và âm thanh hùng hực một cách thiền vị như tiếng trống chùa. Đặc biệt là hồi trống Bát Nhã, chỉ với nhịp ba tiếng, bốn tiếng theo mỗi câu của bài kệ, rồi dồn dập, nhanh và nhỏ dần ở cuối bài. Vậy mà nó vẫn chuyên chở được ý nghĩa đánh thức một cách nhẹ nhàng, sâu thẳm--khác hẳn với tiếng trống thúc quân, nhịp nhàng mà lại làm phấn khích, thôi thúc bạo hành; hay tiếng trống múa lân, vui nhộn và đều đặn một cách nhạt phèo..

Thích nhất là thỉnh trống Bát Nhã vào lúc giao thừa. Bởi vì đây là hồi trống dài nhất trong năm (chín hồi!) mà lại được gióng lên vào lúc nửa đêm, trong giờ phút thiêng liêng chào đón đức phật Di Lặc mà cũng là chào đón một ngày mới, năm mới. Sau khi vị Duy Na thỉnh ba tiếng chuông đầu để chư tăng bái Phật, chín hồi chuông trống lần lượt được nối theo sau ba hồi chung bảng.

Lâu lắm tôi mới cầm lại được cặp dùi trống. Trống ở chùa Linh Sơn tiếng thật ấm, trầm. Cặp dùi bằng gỗ lim đều đặn, vừa tay. Tiếng trống vang. Bập bùng. Trang nghiêm. Tôi tưởng như khắp các cõi trời, chư thiên ngưng tiếng nhạc, đang im lặng tụ về nơi phát tiếng trống. Và bên ngoài cửa chùa, thế gian mê vọng cũng bừng dậy giữa trời đêm mù mịt để lắng nghe tiếng trống lan đi chập chùng như sóng nước, như chiếc cầu thênh thang, đưa đón hằng sa hành giả ra vào tự tại trong ba cõi qua nhịp rung của trí tuệ siêu việt (Bát Nhã). Tim tôi như đập theo từng tiếng, từng roi trống. Khi bốn tiếng trống cuối cùng (trong chùa gọi là tức tứ) kết thúc, tôi nghe tâm mình vắng lặng như hư không.

Và cũng vừa sau khi tiếng trống ở chùa chấm dứt, những tràng pháo đón giao thừa bên ngoài không hẹn mà cùng ồ ạt nổ dòn tan. Nhiều người có thói quen chờ chuông trống ở chùa chấm dứt rồi mới đốt pháo. Ở vùng quê không có đồng hồ, người ta cũng dựa theo tiếng trống giao thừa của ngôi chùa gần nhất mà đốt pháo hoặc cúng vái, đi lễ lạy.

Sau lễ giao thừa, tôi và hai đứa em trai được ngồi uống trà ăn bánh mứt với quý thầy. Quý thầy yêu cầu tôi hát một bản nhạc đầu năm nhưng thấy tôi im lặng, nên thôi. Hai em tôi thay tôi hát hết những bản nhạc do tôi sáng tác trong dịp sống ở vùng kinh tế mới. Đặc biệt là bài thơ “Khóc Cha” của tôi lúc đó lại do Vĩnh Hữu, em trai kế tôi, phổ nhạc rồi xin phép quí thầy hát tặng tôi lần đầu trong buổi tiệc trà hôm ấy. Bài thơ diễn tả tâm trạng của một người tù về nhà được tin cha mình qua đời, chỉ đi thăm được cha nơi nắm mộ. Qua dòng nhạc rất buồn và tiếng hát thê thiết của đứa em trai, chẳng ai trong bữa tiệc cầm được nước mắt, ngay cả quí thầy. Nhưng vì là ngày xuân nên những xúc động đó sau một lúc đong đưa, cũng thoảng qua. Mọi người lại vui vẻ chuyện trò. Sáng sớm rời chùa, chẳng có xe cộ gì qua lại trên đường. Các em tôi chận đón một chiếc xe ngựa trống khách. Ba anh em lên xe về nhà. Một đứa em tôi nói:

“Sáng mồng một lên xe ngựa là dấu hiệu mã đáo thành công đó nghe.”

Chẳng biết hai đứa em trai của tôi có thành công chuyện gì không. Riêng tôi, đến được Thái Lan. Nửa năm sau, từ trại tị nạn, tôi được tin thầy Tâm Hải mất tích trên biển.

Từ đó đến nay đã gần bảy năm. Tôi cũng đón những lễ giao thừa tại chùa. Lúc chùa này, lúc chùa kia. Nhưng chùa ở hải ngoại thường không có hồng chung và trống lớn để thỉnh chuông trống Bát Nhã một cách đàng hoàng, trang nghiêm như ở Việt Nam. Có chùa mở cuốn băng cassette để phát tiếng chuông trống thâu được từ trong nước. Nghe cũng đúng là giọng chuông trống nhưng chỉ là sự nhái lại một cách vô hồn. Giống như những cành mai giả mà người ta chưng bày trong dịp Tết. Cũng là mai đó, nhưng không phải là mai. Dù rất thích một đoạn ngữ lục của sư cô Trí Hải nói về hoa giả, hoa thật, tôi vẫn không sao rung động được với cành mai giả hay là những cành hoa có dạng giống cây mai mà người Việt tại Mỹ thường mua về chưng trong nhà. Đoạn ngữ lục do cô Trí Hải sáng tác kể chuyện một vị sư thích dâng hoa giấy, hoa nhựa để cúng Phật. Có một Phật tử đến chùa thấy vậy nói: "Mô Phật, sao hoa thật bên ngoài thiếu gì mà thầy không dâng cúng Phật lại đi dâng ba cái thứ hoa giả này!" Vị thầy tiếp tục xăm xoi bình hoa giấy, nói tỉnh bơ: "Có hoa nào là hoa thật đâu chứ!"

Với hình thức và hoàn cảnh sống thay đổi, tôi tưởng là sẽ không bao giờ được thỉnh trống Bát Nhã được nữa. Vậy mà giao thừa năm nay, tôi được một thầy trụ trì giao cho chuyện thỉnh trống. Thầy hỏi tôi có mang áo tràng theo không. Tôi thưa không. Thầy cười nhưng cũng không tìm được cái áo nào cho tôi. Đành mặc đồ thường mà thỉnh trống. Vậy cũng hơi lõng chõng, khó chịu. Tuy nhiên, tôi vẫn thích thú vì đã lâu lắm rồi tôi mới được giao cho chuyện thỉnh trống Bát Nhã. Tôi tiến ra chỗ để trống. Cái trống da bò này cũng khá lớn. Có điều, mặt trống hơi dùn, không được căng. Chắc chắn là tiếng kêu không ấm và rền như trống ở các chùa Việt Nam. Giá trống thấp lưng chừng nên tôi không thể đứng thẳng mà cũng không ngồi được cho vừa vặn để thỉnh trống vừa tầm tay. Đành cho trống xuống đất, dựa vào góc tường. Sắp đặt xong chỗ cho cái trống, tôi mói hỏi thầy về cặp dùi. Thầy bảo các chú tiểu đi tìm. Tìm hoài chẳng thấy. Cuối cùng thầy bảo lấy một cặp dùi chuông dùi mõ nhỏ mà đánh đỡ! Loay hoay chờ đợi một lúc, chú tiểu đem đến cho tôi một cái dùi mõ, loại cán nhỏ có cái đầu tròn bằng cao su của các chùa Đài Loan và Trung Hoa. Chỉ một dùi thôi. Tôi năn nỉ chú tìm thêm một dùi nữa. Một chặp chú trở lại đưa cái dùi trống của nhạc jazz. Cán dùi vừa chỗ tay nắm nhưng nhỏ xíu ở đầu dùi, gỗ lại nhẹ, chẳng thấm vào đâu với cái trống đồ sộ. Dùi mõ thì ngắn, nặng ở đầu, nhẹ ở tay cầm; dùi trống jazz ngược lại, nặng ở tay cầm, nhẹ ở đầu dùi mà lại dài gần gấp hai cái dùi mõ! Giao cho cặp dùi như thế chẳng khác cho mang vào chân một bên là giày ba-ta một bên là giép Nhật vậy! Chắc chắn là tiếng trống này sẽ chẳng đánh thức được ai, chẳng cảm hóa được ai. Tôi thầm nghĩ vậy.

Quả nhiên, chín hồi trống giao thừa của tôi năm nay tuy cũng vang động theo nhịp ba tiếng, bốn tiếng của bài kệ trống, nhưng thanh âm lại so le, tiếng nặng tiếng nhẹ, lạc lõng, tan biến rất nhanh vào màn đêm lạnh thấp. Chung quanh tôi lại là quang cảnh ồn ào, chộn rộn, không thích hợp cho sự gửi đi những tín hiệu trí tuệ của thiền môn. Người ra kẻ vào chen lấn, nói cười, ồn ào như ở hội chợ xuân. Chỗ đặt trống lại án ngay lối ra vào chánh điện nên người ta cứ luồn, lách, đi ngang, làm trở ngại tôi, mà còn khiến tôi cảm thấy là tôi đã làm trở ngại cho họ nữa. Tâm tôi tán loạn theo tiếng trống.

Hai giờ khuya mồng một, lái xe về nhà, tự dưng tôi xấu hổ đã thỉnh những hồi trống mà chính tôi cũng chẳng thấy rung động chút nào. Những tiếng trống bộp chộp, không định tâm, không bình thản, đánh cho xong việc để nhường lối đi cho thiên hạ, và đánh với cặp dùi so le một cách buồn cười…

Chúng ta đang sống ở một hoàn cảnh so le; tinh thần và vật chất không cân bằng. Cái tâm bình thường của tôi năm xưa đang chao đảo. Không còn nữa tiếng trống giao thừa năm ấy, không còn nữa chiếc áo tràng khoác lên người để ngăn ngừa những vọng niệm điên đảo. Mà thực ra, có âm thanh hay hình sắc nào là thường tại, bất diệt đâu. Vậy thì tiếng hay, tiếng dở, hoa thực, hoa giả, cũng đâu phải là điều quan trọng! Nhưng tôi vẫn cứ thấy, cứ tin rằng, có những âm thanh và hình sắc hư huyễn nào đó, diễn tả được cái vắng lặng tuyệt đối của chân như qua bước chân gập ghềnh so le của thiền giả thời đại nơi chốn bụi hồng:

Bát Nhã hội

Thỉnh Phật thượng đường

Đại chúng đồng văn

Bát Nhã âm

Phổ nguyện pháp giới

Đẳng hữu tình

Nhập Bát Nhã

Ba la mật môn… (*)

 

Mồng một Tết Giáp Tuất 1994

 

 

_______________

 

(*) Vĩnh Hảo dịch thoát:

 

Pháp hội Bát-nhã vừa quảng khai

Cung thỉnh chư Phật giáng lâm lai

Đại chúng lắng nghe âm trí tuệ

Nguyện đều thâm nhập Bát-nhã đài.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle