Tháp đá Báo Thiên,
chùa Bút Tháp
Tháp Phổ Minh,
chùa Phổ Minh, Nam Định
Trụ biểu chùa Thiên Mụ,
bình minh trong sương mù
  
 
   
 
 
Tìm hiểu về Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản
Nguyên Hiệp
Cập nhật: 12:34:00 30/12/2008

TÌM HIỂU VỀ PHẬT GIÁO NHẬP THẾ Ở NHẬT BẢN
Jonathan Watts

Nguyên Hiệp dịch

Giới thiệu

Tôi muốn đặt khái niệm xã hội dân sự ra ngay đầu bài để làm  phương  tiện  giúp  chúng ta  có  thể  đánh  giá  đúng  hơn về  Phật  giáo  nhập  thế  ở  Nhật Bản.  Xã  hội  dân  sự  thường được  hiểu  như  là  vũ  đài  công chúng tồn tại giữa nhà nước và thị trường dành cho người dân để “tranh luận về những vấn đề lợi ích chung” và “đóng góp lợi ích chung” (Hardacre 2004, tr.391). Điều này cho thấy, chuẩn mực quan trọng hơn cả của xã hội dân sự là đạo đức - tức là, xã  hội  dân  sự  quan  tâm  đến cách  hành  xử  có  đạo  đức  và có  lợi  ích  giữa  con  người  với nhau, do đó đức tính công dân là nền tảng của xã hội dân sự. Điều này tương đồng với khái niệm xã hội dân sự mà những người  Hy  Lạp  và  La  Mã  đã hiểu: “Một xã hội được cai trị bằng  luật,  trong  đó  luật  được xem  như  là  sự  biểu  hiện  đạo đức  chung,  v.v…  và  trong  đó những người cai trị đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân”.(Anheier,   Glasius   và   Kaldor 2001,  tr.  12).

Tuy  nhiên,  khái niệm  này  không  chỉ  giới  hạn nơi  người  Hy  Lạp  và phương Tây.  Đúng  hơn,  tôi  nghĩ  khái niệm  “bất  di  dịch”  về  xã  hội dân sự này được tìm thấy trong mọi  nền  văn  minh  nhân  loại, nơi  đó  phạm  vi  xã  hội  hàm chỉ một lãnh vực quan hệ con người  được  hướng  dẫn  bằng những nguyên tắc đạo đức.

Khái niệm xã hội dân sự bất di  dịch  này  được  nối  kết  một cách tự nhiên với những tổ chức tôn giáo, mà xuyên suốt lịch sử bất chấp hậu quả ra sao, đã tìm cách thiết lập những giáo phái dựa trên những lời dạy đạo đức của  giáo  chủ  của  họ.  Cho  dù xã hội dân sự hiện đại xem ra khác biệt bởi bản chất thế tục của nó, thì nó vẫn nhấn mạnh những  loại  đạo  đức  hành  xử, ủng  hộ  những  khái  niệm  thế tục  và  hiện  đại  như  dân  chủ và  nhân  quyền  chẳng  hạn. Về phương diện lịch sử, những gốc rễ  của  xã  hội  dân  sự  hiện  đại ở  Tây  phương  dường  như  đã bắt đầu với sự cải cách của Tin Lành và những nỗ lực theo sau đó của những giáo phái Thiên Chúa giáo mới khác nhau nhằm tạo  nên  những  cộng  đồng  dân chúng  thật  sự  có  đạo  đức  và ngoan đạo. Cuộc đấu tranh để tạo nên xã hội dân sự hiện đại ở Tây phương là một sự nỗ lực nhằm tái tạo lại những quan hệ đạo đức cộng đồng đang bị tan rã  bởi  những  thay  đổi  nhanh chóng gây ra bởi công nghệ và khoa học hiện đại, sự phát triển của  những  khối  dân  chúng  đô thị, và sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống  thần  học  của  Giáo  hội Thiên  Chúa  giáo  (David  Loy 2002).

Nhiều  học  giả  khác  nhau, như  Toshimaro  Ama  của  Đại học  Meiji  Gakuin,  đã  đặt  câu hỏi  rằng  liệu  Nhật  Bản  hiện đại có thực là một xã hội dân sự  như  những  xã  hội  ở  châu Âu hay ở Nam Mỹ hay không. Mặc dù người Nhật có thể thật sự thiếu một ý thức vững vàng đối  với  khái  niệm  hiện  đại  về xã hội dân sự như là một lãnh vực  xã  hội  tách  rời  khỏi  nhà nước và thị trường, tôi cho rằng họ  vẫn  có  ý  thức  đối  với  một khái niệm cố định về xã hội dân sự. Rõ ràng, Tịnh Độ hay Nhật Liên tông cấp tiến của triều đại Kumakura (1192-1333) đã cho thấy một kiểu mẫu phong trào xã hội dân sự khi tạo ra những giáo phái được đặt căn bản trên những chuẩn mực tôn giáo mà chúng có giá trị trên cả những cộng đồng xã hội lớn hơn. Vào triều đại Muromacchi theo sau  (1333-1573),  những  giáo phái  này  đã  làm  nền  tảng  cho toàn thể dân chúng thuộc Tịnh Độ  tông  (Ikko-ikki)  và  những tín  đồ  Nhật  Liên  tông  (Hok- ke-ikki)  khởi  nghĩa  chống  lại triều đình.

Trong tiếng Nhật, thuật ngữ chỉ  xã  hội  dân  sự  là  Shimin-shakai  (市民社会).  Những  ký tự  gộp  thành  shimin  có  nghĩa đen là “thành thị” () và “dân chúng” (). Điều này cho thấy rằng khái niệm của người Nhật về xã hội dân sự là một kết quả tự nhiên của văn hóa đô thị cận đại. Tuy nhiên, Ama lưu ý rằng khái  niệm  này  vẫn  chưa  được hầu   hết   những   người   Nhật, những người có khuynh hướng xem   xã   hội   giới   hạn   trong thuật ngữ seken (世間) mà nó có nghĩa đen là “thế gian” hay “công  chúng”,  hiểu  một  cách đầy đủ. Khác với việc hiểu xã hội dân sự đề cập đến một lãnh vực công chúng tách biệt khỏi nhà nước và thị trường, seken đối với người Nhật thì bao quát hơn  và  ám  chỉ  cho  điều  mà người  ta  không  cố  gắng  thay đổi nhưng cố gắng điều chỉnh cho phù hợp. Sự phát triển xã hội  dân  sự  cận  đại  ở  Nhật  đã bị  làm  chậm  lại  bởi  sự  kiềm chế  của  nhà  nước  quan  lại  và quyền lực của nó (Hardcare, tr. 394-395). Tuy nhiên, việc xâm nhập thường xuyên những quan kiến thế giới từ sự hiện đại hóa bắt đầu vào triều đại Minh Trị (1868-1912) đã dần dần phá vỡ những khái niệm truyền thống của dân chúng Nhật. Điều này có thể trực tiếp nhìn thấy trong lãnh  vực  tôn  giáo,  đặc  biệt  ở trong   những   phong   trào   tôn giáo   mới   (shin-shukyo)   của thập niên 20 và làn sóng thứ hai của  những  tôn  giáo  mới  (shin shin-shukyo) của thập niên 80 thế  kỷ  XX.  Những  nhóm  này đã tìm cách nói lên sự bất mãn đang  gia  tăng  của  người  Nhật thành  thị,  trôi  nổi  trong  một cộng  đồng  thế  giới  luôn  thay đổi  và  những  giá  trị  đạo  đức không minh bạch.

Tính  trung  gian  của  những chuẩn mực luân lý đạo đức, mà chúng  thông  thường  được  đặt nền tảng nơi tôn giáo và cung cấp cơ sở cho việc tạo nên xã hội dân sự, có thể giúp chúng ta hiểu được những hoạt động xã hội  của  các  tổ  chức  Phật  giáo ở xã hội Nhật Bản đương thời và để đánh giá phạm vi của một phong trào Phật giáo nhập thế đích thực. Theo đó, những vấn đề  lần  lượt được  đặt  ra  ở  bài viết này là: một phong trào hay một nhóm người đóng góp lợi ích cho xã hội Nhật về mặt đạo đức là bao nhiêu? Và một câu hỏi  có  lẽ  còn  quan  trọng  hơn: mục đích của các tổ chức hay những cá nhân là tập trung đóng góp  phúc  lợi  cho  xã  hội  dân sự - tức là cho công chúng nói chung - hay còn có những vấn đề khác bao gồm trong những hoạt  động  này?  Câu  hỏi  cuối cùng cần để ý là: những tổ chức Phật  giáo  này  thành  công  bao nhiêu  khi  tiếp  nối  và  biểu  thị một mô hình xã hội dân sự bản địa thật sự bắt nguồn từ những chuẩn mực tôn giáo và đạo đức thuộc  truyền  thống  Phật  giáo của  họ,  chứ  không  phải  là  từ chủ nghĩa nhân văn ảnh hưởng Thiên Chúa giáo của xã hội dân sự phương Tây?

Một hệ thống mô hình Phật giáo nhập thế

Với những vấn đề được đặt ra  ở  trên,  tôi  muốn  đánh  giá khái  quát  về  những  kiểu  mẫu hoạt động xã hội mà điển hình những Phật tử Nhật đã tham gia vào. Tôi nghĩ chúng ta nên thận trọng ở đây, không cố gán cho một  tổ  chức  thống  nhất  là  chỉ thích hợp với kiểu mẫu này hay kiểu mẫu kia, mà đúng hơn nên xem những kiểu mẫu khác nhau này như là những mô thức hành động mà trong đó một tổ chức đơn nhất có thể ảnh hưởng tất cả, hoặc một vài hoặc không gì cả.  Do  đó,  chúng  ta  có  thể  sử dụng hệ thống mô hình này để hiểu  sâu  hơn  sự  phức  tạp  của các hành động của một nhóm, hơn là việc sử dụng nó như là một phương sách nhằm xếp xó chúng.

1. Hoạt động cứu tế

Đây   là   những   hoạt   động truyền thống của các tổ chức tôn giáo trong vai trò đương nhiên của  chúng  như  là  những  điểm trung  tâm  của  xã  hội  dân  sự truyền thống. Ví dụ, ở Nhật Bản thời tiền hiện đại, đặc biệt trong suốt thời kỳ Edo hay Tokugawa (1600-1868), chùa chiền có thể tìm thấy trong mọi ngôi làng và tăng sĩ luôn tham gia vào mọi loại hoạt động khác nhau để hỗ trợ cộng đồng, chẳng hạn như điều hành trường học (terakoya 寺子屋) hay hỗ trợ những đề án hạ tầng của cộng đồng. Trong suốt  thời  kỳ  hiện  đại  hóa  bắt đầu với triều đại Minh Trị, sự xâm nhập tư tưởng phương Tây cùng với việc phát triển các tổ chức hiện đại và thế tục đã tạo nên mối đe dọa đối với vai trò xã hội truyền thống của tăng sĩ và tự viện. Đương đầu với những khủng  hoảng  này,  những  tăng sĩ Phật giáo bắt đầu nhìn ra các nước khác, không chỉ ở phương Tây  mà  cả  ở  những  quốc  gia Phật giáo khu vực châu Á, và họ đã phát triển những mô thức hoạt động phúc lợi xã hội hiện đại và mới hơn, như các trung tâm  và  trường  mẫu  giáo  ngày hôm nay, trong suốt kỷ nguyên Taisho (1912-1926).

Một  ví  dụ  nổi  bật  là  công việc  của  một  vị  tăng  sĩ  thuộc Tịnh  Độ  tông  Shiio  Benkyo (1876-1971). Ông đã gây dựng bên trong Tịnh Độ tông phong trào Kyosei (kyosei-kai 生会).   Kyosei   đại   thể   được chuyển dịch là Hội Cộng Sinh, và Benkyo đã đặt ý tưởng này trên   học   thuyết   duyên   khởi (pratitya-samutpada)   căn   bản của   Phật   giáo.   Ông   đã   giải thích  học  thuyết  duyên  khởi trên nền tảng xã hội loài người và  nhấn  mạnh  rằng  người  ta cần  nên  nhận  biết  sự  cứu  độ của  Phật  A-di-đà  là  ở  trong xã hội và đời sống hàng ngày. Phong trào này đã khiến nhiều tăng sĩ thuộc Tịnh Độ tông thiết lập những trung tâm bảo dưỡng và trường học ngay trong chùa hoặc ở trong vườn chùa của họ, hoặc tham gia vào những hoạt động  công  ích  xã  hội  khác. Điều này cho thấy rằng những bước quan trọng ban đầu trong việc tiến hành phát triển xã hội dân sự đã được đặt trên những khái  niệm  Phật  giáo  bản  địa. Sự phát triển những đề tài phổ quát như vậy được kết hợp với việc tu tập trong đời sống hàng ngày  như  là  một  phương  tiện cho sự chuyển hóa nội tâm và sự chuyển đổi xã hội thì cũng giống với các trường Phật học mới xuất hiện trong kỷ nguyên này  cũng  như  những  tổ  chức Tịnh  Độ  tông  (Stone  2003). Tuy  nhiên,  những  phong  trào như  thế  này  không  trở  thành những  hoạt  động  chính  thức được  các  giáo  phái  xúc  tiến như là những hoạt động “phúc lợi xã hội” (shakai fukushi 会福祉) mãi cho đến sau chiến tranh, và như vậy phần lớn giới hạn nơi sáng kiến cá nhân của những  tu  sĩ.  Hơn  nữa,  ở  đây cho thấy bản chất đạo đức và tư tưởng hệ của những hoạt động này  có  một  vài  giới  hạn  bởi vì  chúng  không  bao  giờ  được phát triển thành một phong trào thách  thức  chủ  nghĩa  dân  tộc đang lớn mạnh của chính quyền và xã hội. Mặc dù Benkyo ban đầu  cho  thấy  là  chống  chiến tranh, nhưng rồi ông vẫn là một thành viên của Nghị viện và là một  lãnh  đạo  tôn  giáo  ủng  hộ chiến tranh mãi cho đến khi nó kết thúc (Eisawa 2002).

Do  đó,  tôi  đã  quy  cho  lĩnh vực  đầu  tiên  này  là  “cứu  tế”, bởi  vì  bản  chất  hoạt  động  xã hội không đưa đến chiều hướng thách thức cấu trúc xã hội đang hiện  hành,  đặc  biệt  là  về  mặt chính  trị,  mà  duy  trì  nó  bằng cách  cứu  tế  hay  trợ  giúp  dân chúng.  Trong  chừng  mực  nào đó, những hoạt động này có thể được xem như là một phần của xã hội dân sự, bởi vì chúng tập trung vào việc xác định nguồn lực bên trong cá nhân để hành động cho tích cực và hợp đạo đức trong lĩnh vực xã hội. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, chúng ta   không   thể   xem   chúng   là những hoạt động xã hội dân sự đích thực bởi vì bằng việc nhấn mạnh  vào  nguồn  lực  cá  nhân chúng thường bỏ qua những bất công,  theo  đó  trở  thành  công khai thỏa hiệp với quyền lực áp bức. (Stone 2003)

Điều  này  được  nhìn  thấy rõ  ràng  trong  việc  Tokugawa Shogunate sử dụng chùa chiền để  giám  sát  dân  chúng  Nhật thông  qua  hệ  thống  đăng  ký chùa  bắt  buộc  (danka  seido); và ở trong kỷ nguyên hiện đại, được  nhìn  thấy  nơi  quy  định dành  cho  những  tổ  chức  tôn giáo  thông  qua  việc  thành  lập những  tập  đoàn  công  ích  tôn giáo  (shukyo  koeki  hojin,  益法人), mà vị trí pháp lý của chúng có thể bị chính phủ phủ nhận  (Hardacre,  tr.  395).  Kỷ nguyên Taisho,  chủ  nghĩa tích cực của những tăng sĩ Phật giáo có lẽ phần nào hấp thụ khái niệm phục vụ công ích, mà nó cũng là một phương thức còn sót lại của những Phật tử truyền thống nhằm duy trì vị trí của họ trong một  thế  giới  thay  đổi  nhanh chóng và nguy hiểm của Nhật Bản thời đầu hiện đại với sự thế tục của nó, và những quan điểm Thần Đạo (Shinto) cũng như sự sanh khởi của những giáo phái Phật  giáo  mới.  Do  đó,  những mô hình hoạt động này thật sự không theo kịp tư tưởng xã hội dân sự bởi vì chúng không đưa ra  được  một  sự  lựa  chọn  nào khác ngoài quyền lực nhà nước. Trong những trường hợp tồi tệ nhất, chúng có thể làm méo mó ý  nghĩa  chân  thực  của  xã  hội dân sự khi duy trì hệ tư tưởng nhà nước xem như là hiện thân đầy  đủ  của  xã  hội  dân  sự  và bằng việc dọn sạch những cuộc biểu tình chống áp bức và bất công do một nhà nước áp bức tạo  ra  thông  qua  những  hoạt động cứu tế của họ.

2. Hoạt động truyền giáo

Những   hoạt   động   này   là công việc mà mọi tổ chức tôn giáo đều làm như là phần việc thiết  lập  tổ  chức  thành  một phong  trào  quần  chúng.  Theo truyền thống, những hoạt động như  vậy  sẽ  gửi  những  phái đoàn truyền giáo đến những địa phương mới để truyền bá giáo lý  và  sau  đó  xây  dựng  chùa chiền tại nơi ấy. Trong thời hiện đại, đặc biệt trong số những tổ chức  Phật  giáo  mới  của  Nhật, điều này đã được mở rộng thêm bao gồm việc tạo dựng những đoàn thể hoàn toàn mới mẻ bên trong xã hội Nhật rộng lớn qua việc xây dựng trường học, các viện đại học, bệnh viện, v.v… Những  hoạt  động  này  đã  cố gắng  chăm  sóc  và  quan  tâm không  chỉ  nhu  cầu  tinh  thần của cộng đồng mà còn cho cả những  nhu  cầu  vật  chất  nữa. Như vậy, những hoạt động phổ biến này và những công tác cứu trợ mới mẻ được đề cập ở trên cho thấy xu hướng hiện đại đặc thù là tập trung tiêu điểm vào lợi ích vật chất của dân chúng cũng như lợi ích tinh thần của họ.

Tôi đã quy cho những hoạt động này là “truyền giáo”, bởi vì mặc dù có thể có mục đích đạo  đức  là  làm  điều  tốt  cho người khác, thì ở đó đã có động lực  “vị  kỉ”  cốt  lõi  nằm  phía sau  những  hoạt  động  là  nhằm xây  dựng  mục  tiêu,  sức  mạnh và  uy  tín  của  tổ  chức.  Do  đó, không thể quy cho những hoạt động  này  là  những  hoạt  động xã hội dân sự đích thực bởi vì quyền ưu tiên là lợi ích của tổ chức và sự phát triển chỉ ở bên trong nhóm tín đồ, thay vì vào xã  hội  lớn  hơn  như  một  tổng thể.  Như  vậy,  chúng  ta  có  thể nhận  ra  hoạt  động  cứu  tế  qua việc xây dựng một trường mẫu giáo  do  một  ngôi  chùa  truyền thống  thực  hiện  và  hoạt  động truyền giáo qua việc xây dựng một  ngôi  trường  trung  học  do một tổ chức Phật giáo mới tiến hành  có  một  sự  khác  biệt  cơ bản trong động cơ, tức mô hình trước  dùng  biện  pháp  phòng thủ nhằm duy trì vị trí trong xã hội, trong khi mô hình sau thì có cách thức tấn công để đạt lấy vị thế ở trong xã hội. Bản chất “tấn công” của những hoạt động này bản thân nó cũng có thể ảnh hưởng như là một sự thách thức đối  với  xã  hội  hiện  hành,  và trong trường hợp những tổ chức Phật giáo mới, dĩ nhiên là một sự thách thức đối với quyền lực hỗ tương của những giáo phái Phật giáo truyền thống và chính quyền nhà nước. Từ lập trường tư tưởng hệ, những tổ chức này có thể giữ được chân lý trong tín ngưỡng của mình khi vượt qua  những  luật  lệ  thế  tục  của nhà  nước.  Việc  nắm  giữ  như vậy  là  một  đặc  điểm  dễ  thấy nơi lời dạy của ngài Nhật Liên (Nichiren), người đã thực hành theo kinh Pháp Hoa trong khi sử dụng vai trò tu sĩ của mình thách thức nhà nước và sự thiết lập  Phật  giáo.  Dường  như  rất trùng hợp rằng, hầu hết những tổ chức Phật giáo mới đáng chú ý  của  Nhật  Bản  hiện  đại  phát xuất  từ  dòng  chảy  Nhật  Liên như   Soka   Gakkai,   Reiyukai, Rissho   Koseikai   và   Nippon- zam  Myohoji,  đều  phản  ánh một  phạm  vi  tư  tưởng  đầy  đủ mọi mặt.

Về phương diện xã hội dân sự,  những  tổ  chức  Phật  giáo mới,   dễ   thấy   nhất   là   Soka Gakkai,  đã  đề  xuất  một  kiểu mẫu khác về trật tự xã hội, một loại chủ nghĩa cải cách xã hội, khác  cả  chủ  nghĩa  tư  bản  và chủ  nghĩa  cộng  sản,  và  được đặt  cơ  sở  trên  khát  vọng  của quần chúng thứ yếu trong suốt thời kỳ hiện đại hóa và gia tăng kinh tế vượt bậc. Trong thời kỳ chuyển đổi xã hội nhanh chóng hậu chiến tranh, dân chúng đô thị phát triển cần một vài điểm tựa tinh thần và sự hỗ trợ xã hội, và  Soka  Gakkai  đặt  nền  tảng trên  Phật  giáo  rõ  ràng  đã  đáp ứng  được  những  nhu  cầu  của họ. Đây dĩ nhiên là một loại xã hội dân sự tất yếu không bị nhà nước  kiểm  soát,  đúng  hơn  là nó đã nhằm mục đích sắp xếp lại phạm vi công chúng thông qua  cơ  cấu  đại  diện  chính  trị. Do vậy, Soka Gakkai đã thành lập đảng Komei vào năm 1964, chủ  trương  tính  minh  bạch  và phúc lợi, mà cả hai đang thiếu vắng  trong  thời  kỳ  phát  triển kinh  tế  vượt  bậc  này.  Do  đó, tầm nhìn của một tổ chức tâm linh-xã  hội  mới  của  những  tổ chức Phật giáo mới như vậy có thể đại diện cho tinh thần chân thực của xã hội dân sự khi đưa ra căn bản quyền lực thay thế quyền  lực  cố  thủ.  Tuy  nhiên, hoạt  động  truyền  giáo  và  khả năng “tấn công” của những tổ chức như vậy thường có thể tạo ra  những  hình  thái  thỏa  hiệp mới với những hình thái quyền lực phi dân sự khác, chẳng hạn như  quyền  lực  thị  trường,  đối cực mà xã hội dân sự trong đó được  cho  là  đưa  ra  một  khả năng   lựa   chọn   khác.   Trong môi trường hết sức tư bản của Nhật  sau  chiến  tranh,  sự  phát triển công nghệ tang lễ do các nhóm  Phật  giáo  truyền  thống thực hiện, sự tiếp thị đại chúng và những hoạt động xây dựng quần  chúng  của  những  nhóm

Phật  giáo  mới  đã  khiến  cho Phật giáo đi đến thỏa hiệp với quyền  lực  tài  chính.  Như  vậy, rất khó khăn để gọi những hoạt động  này  là  hoạt  động  xã  hội dân sự đích thực khi mục tiêu cốt yếu của chúng không phải là phát triển đạo đức xã hội mà là  sự  phát  triển  tài  chính  của chính tổ chức của họ.

3. Hoạt động cải cách

Những  hoạt  động  này  phù hợp  với  điều  tôi  gọi  là  những hoạt động xã hội dân sự được phát triển hoàn thiện và đầy đủ, và cũng là điều tôi gọi là một phong trào Phật giáo nhập thế trưởng thành. Cùng với cứu tế và truyền giáo, đây là một mô thức khuôn mẫu mà nó không thể thực hiện được trọn vẹn bất cứ nơi đâu trừ ở những tổ chức Phật giáo bao gồm mọi tầng lớp khác nhau. Có hai đặc tính chủ chốt của loại phong trào này.

Thứ   nhất   là   phê   bình   tư tưởng hệ về lĩnh vực quyền lực trong xã hội hiện hành. Một sự phê  bình  như  vậy  sẽ  thiết  lập tổ chức vững chắc như là một phần  của  phong  trào  xã  hội dân sự đích thực, mà nó đưa ra một quan điểm lựa chọn về xã hội tách rời khỏi nhà nước và những  tiêu  chuẩn  quyền  lực. Đây  là  một  yếu  tố  chủ  chốt  ở trong  những  phong  trào  Phật giáo nhập thế ở những khu vực khác  của  châu  Á.  Ở Thái  Lan và Sri Lanka, sự phê bình này điển hình nhắm đến vấn đề bạo lực và sự phá sản đạo đức của thời kỳ phát triển hiện đại, khi chủ trương một kiểu mẫu Phật giáo duy nhất cho sự phát triển, chẳng   hạn   như   phong   trào “Thức  tỉnh  tất  cả”  của  Sarvo-daya ở Sri Lanka và khái niệm “Chủ nghĩa xã hội theo Pháp” (Dhammic Socialism) được đề ra  bởi  vị  Tỳ-kheo  người  Thái Buddhadasa  (Queen  và  King 1996).

Đặc  tính  thứ  hai  là  một  sự kết ghép của phê bình ý thức hệ này  với  một  phong  trào  hành động xã hội tiến bộ, được nhìn thấy ở Sri Lanka như là phong trào  phát  triển  nông  thôn  quy mô   của   Sarvodaya   và   công việc phát triển của các Tỳ-kheo ở Thái Lan.

Điểm chủ chốt khi chỉ định cho lĩnh vực này là “cải cách” vì rằng thành phần tư tưởng hệ và  hành  động  xã  hội  cùng  tác động lẫn nhau sâu sắc và tạo ra một sức ép biện chứng ngăn cản một trong hai đi đến thay đổi. Từ quan điểm Phật giáo, chúng ta có thể hiểu được hai đặc tính này là phương thức biện chứng giữa trí tuệ và từ bi. Trí tuệ mà thiếu từ bi có thể lạnh lùng và là công cụ, trong khi từ bi mà thiếu trí tuệ có thể làm cạn kiệt chính  nó  trong  việc  ứng  dụng không sáng suốt.

Ví  dụ,  một  phong  trào  mà nó tập trung nhiều vào tư tưởng hệ  có  thể  đánh  mất  sự  truyền thụ  của  nó  trong  những  hành động  phục  vụ  xã  hội  căn  bản mà  thông  qua  đó  nó  đưa  ra những  tình  cảm  đạo  đức.  Một sự  phê  bình  tư  tưởng  hệ  mà đánh  mất  sự  truyền  thụ  như vậy có thể trở nên quá liên lụy với sự phê bình quyền lực của nó và sự ràng buộc của nó với quyền lực, do đó trở nên dễ bị vướng mắc với những lôi cuốn tương tự đối với quyền lực phê bình. Theo chiều hướng có hại, sự phê bình tư tưởng hệ sẽ trở thành một phong trào chính trị gây chia rẽ mà rốt cuộc chính nó  có  thể  kết  liên  với  “những thay  đổi  chính  thể”  nơi  nhà nước và quyền lực thương mại. Điều này được thấy rõ ràng ở Sri  Lanka,  nơi  mà  phong  trào Tăng  già  xác  định  lại  chính mình  để  chống  lại  những  mối đe dọa của chủ nghĩa tân thời phương Tây, đã biến nó thành một  hình  thức  chủ  nghĩa  dân tộc được đặt cơ sở trên sự hợp nhất của nhà nước, tôn giáo và dân chúng. Về phía Nhật Bản, xu hướng này có thể được dẫn chứng  thêm  một  lần  nữa  nơi phong   trào   Nichiren.   Chính Nichiren  đã  thực  hiện  một  sự phân  tích  tư  tưởng  sâu  sắc  về nhà  nước  chính  trị  Nhật  Bản trong  tác  phẩm  nổi  tiếng  của mình - Luận giải về việc thiết lập  quốc  gia  đúng  đắn  và  an toàn (Rissho Ankoku-ron). Tuy nhiên, trong thời kỳ tiền chiến tranh,  sự  phê  bình  nhà  nước của  Nichiren  đã  bị  thiên  lệch vào  trong  một  sự  hợp  nhất  tư tưởng  tôn  giáo  của  mình  với nhà nước để ủng hộ chủ nghĩa đế  quốc  của  Nhật.  Điều  này được gọi là Nichiren-shuti (chủ nghĩa Nichiren) và được nói rõ trước đó bởi vị tăng sĩ đi trước Nichiren là  Tanaka Chigaku (1861-1939), người đã thành lập tổ chức thế tục Rissho Ankoku- kai  để  ủng  hộ  Nichiren-shuti (Stone  2003).  Ngày  nay,  Soka Gakkai  phục  vụ  hết  sức  bí  ẩn trong  phạm  vi  này.  Trong  khi ủng hộ hòa bình thế giới bằng vô  số  những  hoạt  động  quốc tế, thì trên mặt trận nội địa, họ hình thành nên trụ cột tư tưởng hệ của đảng Komei đầy quyền lực và bảo thủ mà hiện thời nó đứng  về  phía  Nhật  ủng  hộ  sự can  thiệp  của  Mỹ  vào  Trung Đông. Chính sách này được liên kết với phong trào gửi quân đội ra nước ngoài và sửa đổi hiến pháp  hòa  bình  của  Nhật,  một hiến pháp mà nhà lãnh đạo của Soka Gakkai là Daisaku Ikeda đã  tuyên  bố  là  làm  cho  Nhật Bản “hoàn toàn có đủ tư cách là người tiên phong để huy động tất cả những lực lượng hòa bình của thế giới, để nắm lấy cương vị lãnh đạo, và để đánh thức dư luận  thế  giới  thông  qua  Liên Hiệp Quốc (Stone 2003, tr 86). Sự vắng mặt tiếp tục của Soka Gakkai trong những khởi xướng của khối Phật giáo, hòa bình tôn giáo và xã hội dân sự bên trong Nhật Bản củng cố thêm những mối nghi này, và cho thấy phù hợp với triết lý chung của họ về việc không hợp tác với những nhóm tôn giáo khác, Phật giáo hay không Phật giáo.

Mặt  khác,  một  phong  trào mà  nó  thiếu  đi  sự  phê  bình  ý thức hệ và tập trung tiêu điểm vào  hành  động  xã  hội  thì  có khuynh  hướng  giống  với  hoạt động cứu tế của nhiều tổ chức Phật giáo. Điều này rõ ràng có mặt  ở  trong  hầu  hết  những  tổ chức Phật giáo thực hiện hoạt động xã hội ở Nhật Bản ngày nay. Một phần lớn những nhóm này dốc hết tâm trí vào “những hoạt  động  hợp  tác  quốc  tế”, bao gồm nhiều hình thức cứu tế khác nhau đến châu Phi, Trung Đông, Nam và Đông Nam châu Á. Cũng có một số lớn chuyên bàn suông về hòa bình. Tôi sử dụng từ “bàn suông” bởi vì hầu hết mọi hoạt động đều là thiết lập hội thảo, xuất bản ấn phẩm và  tuyên  ngôn,  trong  khi  hầu như không có sự phê bình nào về sự thỏa hiệp kinh tế và chính trị của Nhật Bản với tình trạng xung đột khắp nơi trên thế giới. Công   chúng   nói   chung   của Nhật  luôn  được  dạy  dỗ  để  đổ lỗi những vấn đề này cho Hoa Kỳ,  thay  vì  nghiên  cứu  xem những  nhu  cầu  của  họ  về  dầu lửa  và  năng  lượng  dưới  lòng đất cũng như lối sống tiêu thụ của  họ  đóng  một  vai  trò  quan trọng trong việc duy trì quyền bá chủ của Mỹ trên thế giới như thế nào. Từ viễn cảnh Phật giáo, Miến Điện có thể là một ví dụ rõ ràng nhất về sự thỏa hiệp và thiếu phân tích xã hội này của Nhật. Miến Điện, một quốc gia thành viên Phật giáo chính yếu, đã chịu một chế độ quân sự độc tài hà khắc trên bốn mươi năm. Tuy  thế  những  tổ  chức  Phật giáo ở Nhật đã không thực thi nỗ lực có hệ thống để giáo dục quần  chúng  về  vấn  đề  này  và để đưa đến một chiến dịch nhất quyết   chống   lại   những   hoạt động thương mại của Nhật và việc  viện  trợ  nước  ngoài  của Nhật mà nó yểm trợ cho chính quyền  đó.  Trong  khi  một  vài tạp chí Phật giáo ở Nhật quảng cáo việc chào bán gỗ của Miến Điện  sử  dụng  trong  việc  xây dựng lại chùa chiền, thì Thiên Chúa giáo Tây phương tiếp tục là  người  lãnh  đạo  trong  việc cứu  trợ  và  thương  mại  đã  tẩy chay tập đoàn quân nhân Miến Điện.  Cần  nên  ghi  nhớ  rằng Phật giáo ở Nam và Đông Nam châu  Á  cũng  không  thể  thay đổi  quan  điểm  của  chính  phủ họ  về  Miến  Điện.  Tuy  nhiên, Nhật Bản rõ ràng khác với họ trong mức độ phát triển kinh tế và trách nhiệm dân chủ mà nó ngang tầm với Tây phương.      

Chính  vì  điểm  này  mà  tôi nêu ra vấn đề là tại sao Phật tử Nhật  vẫn  còn  phải  phát  triển sự  phê  bình  ý  thức  hệ  mạnh mẽ của họ được đặt cơ sở trên những lời dạy của Phật giáo mà nó hòa hợp với một kiểu mẫu hoạt  động  xã  hội  ủng  hộ  một xã  hội  dân  sự  đích  thực  như lãnh  vực  đạo  đức  chung  tách rời  khỏi  nhà  nước  và  quyền năng thương mại. Người ta có thể giải thích rằng bởi vì Nhật Bản  không  bị  chủ  nghĩa  thực dân Tây phương đô hộ, nên nó không bao giờ phải tìm kiếm và phát triển những giá trị bản địa, như Phật giáo, như là vai trò của một  cuộc  đấu  tranh  giành  độc lập. Tuy nhiên, Thái Lan cũng không  bị  thuộc  địa  như  Nhật, nhưng đã phát triển thành một trong những hình ảnh Phật giáo nhập thế phong phú nhất như là một sự thay thế cho quyền lực chủ nghĩa tân thời Tây phương. Cũng có sự giải thích khác rằng, nguyên nhân có thể do vai trò cố  định  của  Phật  giáo  trong  ý thức hệ lập quốc từ sự khởi đầu của nó ở Nhật Bản. Như chúng ta thấy ở mục những hoạt động “cứu  tế”,  Phật  giáo  Nhật  Bản luôn gắn chặt với nhà nước. Do đó, những mối liên hệ mật thiết của  Phật  giáo  với  Tokugawa Shogunate đã đóng một vai trò chủ  chốt  trong  việc  tự  gạt  bỏ nó trong suốt thời kỳ đầu hiện đại hóa của triều đại Minh Trị. Giáo sư Jun Nishikawa của đại học Waseda đã giải thích rằng cả  thời  kỳ  đầu  hiện  đại  hóa và  thời  kỳ  hậu  chiến  tranh  đã đánh  dấu  một  sự  đa  dạng  lớn lao những hệ thống giá trị của dân chúng Nhật. Bởi vậy, Nhật Bản đã phát triển một mô hình hiện đại hóa thế tục không có tôn  giáo  lớn  hơn  khi  so  sánh với  những  xã  hội  Phật  giáo  ở Nam và Đông Nam Á. Lâu sau đó, khi các quốc gia này bước vào thời kỳ hiện đại hóa mạnh mẽ,  đã  nói  lên  rằng  Phật  giáo đã sống lại vững chắc hơn như một hệ tư tưởng bản địa phục vụ nhu cầu của những nhà cải cách địa phương. Cũng cần nên nhớ  rằng,  bản  chất  môn  phái quyết  liệt  của  Phật  giáo  Nhật Bản cho thấy một tầm nhìn rất thiếu hệ tư tưởng đồng nhất về xã hội so với truyền thống hòa hợp của Theravada phổ biến ở Nam và Đông Nam châu Á.

Do  đó,  xã  hội  dân  sự  Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng sâu sắc khái  niệm  thế  tục  (chủ  nghĩa nhân văn) và duy vật (chủ nghĩa xã hội) của Tây phương. Vì thế, Phật  giáo  thường  không  được xem như là một đối lực mà là một nguồn an ủi. Nhân đây tôi xin kể một câu chuyện đặc biệt về một người bạn cũ mà nó đã tác động đến tôi. Cô ấy đã làm việc  tích  cực  nhiều  năm  cho một  tổ  chức  phi  chính  phủ  và trong  những  hoạt  động  xã  hội dân sự, và cũng là một Phật tử nhiệt tâm thuộc Nhật Liên tông. Tổ chức này thực hiện các đề án về phát triển và những giải pháp  hòa  bình.  Tổ  chức  này cũng  như  nhiều  tổ  chức  phi chính  phủ  nhiệt  tình  tích  cực khác của Nhật, đã có một căn bản  Mác-xít  cho  hệ  tư  tưởng của mình. Rốt cuộc là cô ấy đã thấy mình không thể làm việc cho  họ  được  nữa  bởi  vì  thỉnh thoảng sự kỳ thị công khai đã bóp nghẹt niềm tin và thực tập của  cô  ấy.  Riêng  cá  nhân  tôi, trong khi làm việc nhiều năm ở Thái Lan cho một tổ chức Phật giáo phi chính phủ lớn, tôi luôn cảm  nhận  được  một  sự  thân thiết vô cùng từ dân chúng khi họ hiểu được công việc của tôi. Trong khi đó, tôi nhận thấy sự việc hầu như trái ngược ở Nhật Bản,   nơi   dân   chúng   thường nghi ngờ rằng tôi đang hợp tác với  một  nhóm  cúng  bái,  ngay cả khi có sự hiện diện của một giáo  phái  Phật  giáo  lớn  như Tịnh Độ tông.

Sự nhận thức chung này về Phật  giáo  và  xã  hội  Nhật  Bản hiện  đại  đã  có  ảnh  hưởng  lớn lao trong việc làm chậm lại sự phát  triển  Phật  giáo  nhập  thế mạnh  mẽ  ở  Nhật.  Sự  thế  tục hóa  toàn  diện  và  tư  nhân  hóa thực hành Phật giáo ở Nhật Bản hiện đại cũng đã làm chậm đi sự  phát  triển  những  sáng  kiến của  các  tăng  sĩ  quan  tâm  đến xã  hội,  họ  luôn  gặp  khó  khăn khi   thuyết   phục   tín   đồ   của mình về những hành động mà họ mong đảm nhận cho xã hội. Hơn nữa, khi văn hóa thế tục, đặc  biệt  ở  trong  giáo  dục,  đã đi  nhanh  hơn  văn  hóa  truyền thống Phật giáo, thì các tăng sĩ hiếm  khi  được  nhìn  nhận  như là những nhà lãnh đạo trí thức trong xã hội. Sự lựa chọn một lối sống thế tục bởi các tăng sĩ Nhật, điều đáng chú ý nơi Phật giáo Nhật, cũng đã cướp đi của họ quyền lực đạo đức mà một tăng sĩ đạt đạo có ở trong quá khứ (Tomatsu, 1995). Các tăng sĩ Phật giáo và một vài tín đồ nhiệt tâm vẫn còn tham gia vào những hoạt động xã hội dân sự, nhưng  vẫn  luôn  “ở  trong  căn phòng  nhỏ”  Phật  giáo  của  họ. Điều này đã tạo ra tình trạng về một  loại  phong  trào  Phật  giáo nhập thế kín, nơi mà nhiều cá nhân cố gắng tạo ra những hoạt động xã hội dân chủ và quốc tế vẫn rất ít thấu hiểu lẫn nhau. Để tìm phương thuốc cho tình trạng này mà mạng lưới Phật giáo phi chính phủ đã được hình thành vào năm 2002. 

Những bước đi đến một phong trào Phật giáo xã hội dân sự đích thực:

Sự phát triển những tổ chức Phật giáo phi chính phủ

Trong phần tiếp theo này, tôi muốn trình bày tổng quan về sự phát triển những tổ chức Phật giáo phi chính phủ ở Nhật. Tôi nghĩ công việc như vậy sẽ làm sáng tỏ những nỗ lực của Phật tử Nhật cố gắng vượt qua ranh giới hạn hẹp của Phật giáo nhập thế “cứu tế” hay “truyền giáo”.

Sự vận động bên trong một Phật  giáo  nhập  thế  mạnh  mẽ, như tôi đã đề cập ở trước, đòi hỏi  đến  tác  động  biện  chứng của một hệ tư tưởng phê bình và một hành động xã hội tiến bộ. Về việc phát triển hệ tư tưởng, điều quan trọng là những Phật tử  Nhật  cần  phát  triển  đầy  đủ những giá trị đạo đức phổ quát trong giáo lý Phật giáo, mà nói theo  kinh  điển  là  làm  giảm  đi khổ đau của tất cả chúng sanh và theo lịch sử là đem lại cho phụ  nữ  và  những  người  ngoài lề xã hội quyền thực hành tôn giáo. Thật đáng tiếc, như chúng ta đã nhìn thấy ở trước, những nỗ lực ưu tiên cho sự phổ quát ấy  đã  dừng  lại  ở  mức  độ  bộ phái và quốc gia. Đạo đức phổ quát này là điều hiện đang đồng hành với hoạt đồng toàn cầu tiến bộ. Các tổ chức Phật giáo khắp thế  giới  đã  tìm  thấy  đạo  đức phổ quát này nơi truyền thống của họ và đã cố gắng thích ứng nó với nền đạo đức của những truyền thống khác.

Những  gốc  rễ  của  một  nền đạo  đức  phổ  quát  đích  thực như vậy có thể tìm thấy nơi sự phát  triển  của  một  vài  trường phái  Phật  giáo  mới  ở  Nhật. Như chúng tôi đã lưu ý ở trước, đóng góp của Soka Gakkai đối với vấn đề này là thiếu rõ ràng, tuy  những  chi  nhánh  quốc  tế của Soka Gakkai thật sự được coi là tham gia vào những hoạt động  hòa  bình  phi  bộ  phái. Có  lẽ  Rissho  Koseikai  là  một hình  ảnh  được  phác  họa  thích hợp  hơn.  Dưới  sự  lãnh  đạo của  người  sáng  lập  là  Nikkyo Niwano,  tổ  chức  này  đã  tham gia sâu vào đối thoại hòa bình quốc  tế  từ  thập  niên  50  của thế kỷ 20 và là một thành viên không thể thiếu trong Hội nghị thế  giới  về  tôn  giáo  và  hòa bình tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở  New York.  Như  vậy,  những trường   phái   Phật   giáo   mới đã  tiên  phong  mạnh  mẽ  trong việc  tham  gia  vào  những  hoạt động quốc tế thật sự, trong khi những  giáo  phái  truyền  thống đã phải dành nhiều thời gian để giải quyết những mắc míu của họ với chiến tranh như là bước khởi đầu đi đến phát triển một nền  đạo  đức  tôn  giáo  quốc  tế đích thực.

Cần nhớ bối cảnh rất cơ bản này, sự xuất hiện những tổ chức Phật  giáo  Nhật  Bản  phi  chính phủ đầu tiên là vào những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước trong  việc  giải  quyết  khủng hoảng  đang  tăng  cao  ở  Đông Dương với thuyền nhân từ Việt Nam  và  một  khối  lớn  người Cam-bốt đang lánh nạn ở biên giới Thái Lan. Những tổ chức này,  như  tổ  chức  Trung  tâm Viện trợ Phật giáo được thành lập vào năm 1982 mà hầu hết thành viên là các tăng sĩ Nhật Liên  tông,  nhằm  đáp  lại  việc phê bình có xu hướng chủ đạo, rằng Phật giáo đã trở nên không thích hợp với xã hội hiện đại và rằng  những  tăng  sĩ  đã  không quan tâm đến hạnh phúc chung của dân chúng. Thêm một yếu tố khác, đó là sự gia tăng vai trò quốc tế mà người Nhật và tăng sĩ  Nhật  có  được  nhờ  vào  nền kinh  tế  thịnh  vượng.  Tại  buổi khai  trương  Mạng  lưới  Phật giáo  phi  chính  phủ  vào  tháng 7-2002,   Tỳ-kheo   Yoshimichi Ito của Trung tâm Viện trợ Phật giáo đã nói rõ nỗi bức xúc và bàng hoàng mà rất nhiều Phật tử  Nhật  đã  cảm  nhận  trong chuyến  viếng  thăm  đầu  tiên của  họ  đến  những  trại  tỵ  nạn Cam-bốt.  Trước  hết,  họ  nhận thấy hầu hết những tổ chức tôn giáo đang làm công tác cứu trợ là thuộc Thiên chúa giáo đến từ Tây phương. Thứ đến, họ nhìn thấy  những  nhà  sư  Cam-bốt đang  làm  việc  ở  đó  không  có đủ tài chính để thực hiện giáo dục, cứu trợ và những chương trình  phát  triển  khác. Tỳ-kheo Ito  nói,  “Tôi  đây,  một  tăng  sĩ mệnh  danh  theo  truyền  thống Đại thừa được đặt căn bản trên hạnh vô ngã và Bồ-tát, từ Nhật Bản đến không có thứ gì cả để giúp họ ngoại trừ một túi tiền, và  ở  đó  tôi  nhìn  thấy  những Tỳ-kheo theo truyền thống Theraveda,  từng  bị  cho  là  chỉ quan tâm đến việc tự độ, đang làm việc trong những điều kiện vô  cùng  thiếu  thốn,  dùng  con tim của mình chuyển tiếp trí tuệ và khả năng mà họ có đến với dân  chúng”.  Những  cảm  xúc này đã tạo nên một phong trào hoạt động cứu trợ quốc tế lớn lao không chỉ ở những tổ chức Phật giáo phi chính phủ mà còn ở những tổ chức chính thức và không  chính  thức  của  hầu  hết các bộ phái Phật giáo, cũ cũng như mới.

Ở  đây  cần  nên  lưu  ý  rằng, thuật ngữ phi chính phủ (Non- governmental organization, NGO)  như  được  xã  hội  dân sự   Nhật   và   những   tổ   chức Phật giáo này sử dụng có một ý  nghĩa  đặc  biệt  mà  nó  khác với  khái  niệm  chung.  Thuật ngữ NGO có nghĩa đen là “tổ chức  phi  chính  phủ”.  Do  đó, rất  rõ  ràng  nó  là  một  tổ  chức xã hội dân sự xem nó dĩ nhiên độc lập với những tổ chức nhà nước cũng như những đoàn thể thương  mại,  và  đặc  biệt  quan tâm đến những hình thức phúc lợi xã hội. Những tổ chức phi chính  phủ  của  Nhật  rõ  ràng chia sẻ mối quan tâm phúc lợi xã hội này. Tuy nhiên, ý nghĩa của một tổ chức phi chính phủ là phần tạo nên xã hội dân sự thì đã có phần dịch chuyển, bởi vì trong bối cảnh Nhật Bản, tổ chức phi chính phủ đặc biệt đề cập đến một tổ chức tham gia vào “những hoạt động hợp tác quốc   tế”   (kokusai   kyoryoku katsudo  国際協力活動)  (Shi-mizu  1999,  tr.699).  Trong  khi có thể thấy rõ ràng rằng những tổ  chức  phi  chính  phủ  là  bộ phận  tạo  nên  một  xã  hội  dân sự toàn cầu, mà điều luôn cần thấy là một quốc gia phải phát triển  hoạt  động  xã  hội  dân  sự của chính mình trước khi có thể tham gia đầy đủ vào một xã hội quốc tế. Việc hiểu khác thường này  về  tổ  chức  phi  chính  phủ phần  nào  nói  lên  không  chỉ bản chất thứ yếu của những tổ chức  Phật  giáo  phi  chính  phủ trong xã hội dân sự Nhật Bản, mà  nói  chung  còn  đề  cập  đến cuộc đấu tranh của xã hội Nhật trong việc phát triển một phạm vi công chúng tồn tại tách rời khỏi nhà nước và những liên hệ của nó.

Thời điểm phôi thai thứ hai cho  những  tổ  chức  phi  chính phủ  Nhật  Bản,  đặc  biệt  cho những tổ chức Phật giáo, là vụ động đất Hanshin khủng khiếp vào  năm  1995.  Sự  bế  tắc  của những  hội  đoàn  thuộc  chính phủ trong việc giải quyết thảm họa  này  đã  dẫn  đến  sự  phát khởi công tác cứu tế lớn và tự phát của dân chúng Nhật, bao gồm  nhiều  tổ  chức  phi  chính phủ  “hoạt  động  hợp  tác  quốc tế”. Qua việc nỗ lực tham gia vào  những  hoạt  động  này,  lần đầu tiên trong một thời gian dài những tổ chức và tăng sĩ Phật giáo đã cảm nhận sâu sắc hơn về truyền thống của họ, như là những người điều hành xã hội dân  sự.  Bên  cạnh  đó,  sự  gia tăng những tệ đoan xã hội trong suốt thời kỳ trì trệ đã khiến cho những  tổ  chức  Phật  giáo  phi chính  phủ  nhạy  cảm  hơn  đối những  vấn  đề  trong  nước  khi họ vẫn tiếp tục công việc quốc tế  của  mình.  Điển  hình  cho điều  này  là  tổ  chức  Phật  giáo phi  chính  phủ  Ayus,  do  một nhóm các tăng sĩ xuất sắc của Tịnh  Độ  tông  (Jodo-shu)  và Tịnh Độ Chân tông (Jodoshin- shu) thành lập.

Điểm  mốc  thứ  ba  là  sự  ra đời Điều luật dành cho Tổ chức phi  lợi  nhuận  vào  năm  1998, xóa  bỏ  thuế  cho  những  người đóng góp quỹ. Bất cứ ai đến từ Tây  phương  nơi  mà  việc  làm như vậy đã trở thành tiêu chuẩn sẽ bị sốc khi nhìn thấy một xã hội  hiện  đại  cao  như  Nhật  lại thiếu luật định đến vậy. Đây là một triệu chứng khác dẫn đến việc phát triển chậm chạp một phong trào xã hội dân sự đích thực, ít nhất là theo những tiêu chuẩn  của  Tây  phương.  Bên cạnh thuật ngữ phi chính phủ, phi lợi nhuận nói chung đã có một ý nghĩa rộng hơn bao gồm cả  những  hoạt  động  quốc  tế và nội địa, nhưng trong chừng mực  nào  đó  hoạt  động  trong nước  có  phần  mạnh  hơn.  Một trong  những  ảnh  hưởng  quan trọng của luật này là nó đã mở rộng những khả năng tài chính của  những  tổ  chức  Phật  giáo phi chính phủ. Trước đây nhiều tổ chức phi chính phủ trong số này  đã  liên  kết  với  một  giáo phái  Phật  giáo  chính  thức  để duy trì sự ủng hộ tài chính cơ bản, bây giờ chúng ít phụ thuộc vào  nguồn  thu  này.  Lấy  ví  dụ tổ chức Phật giáo phi chính phủ hiện có tên gọi là Hội tự nguyện Shanti  (Shanti  Volunteer  As- sociation). Hội này do bộ phái Thiền  Tào  Động  (Soto  Zen) thành  lập  vào  năm  1980,  với tên gọi đầu tiên là Uỷ ban cứu tế Tào Động tông Nhật Bản, với mục đích cứu trợ những người tị nạn Cam-bốt. Để tiếp tục phát triển, nó đổi thành tên Hội Tình Nguyện Thiền Tào Động và trở thành một trong những tổ chức phi chính phủ lớn nhất ở Cam- bốt. Vào  năm  1999,  khi  có  vị trí pháp lý mới là tổ chức phi lợi nhuận, nó đã đổi tên thành Hội  tự  nguyện  Shanti,  mà  rõ ràng đã tách biệt nó khỏi những ràng buộc bộ phái hay tôn giáo thường  gây  cản  trở  trong  việc giành lấy sự viện trợ tài chính của chính phủ cũng như những tổ chức khác.

Sự phát triển này đem lại cơ hội cho việc hợp nhất những tổ chức  Phật  giáo  phi  chính  phủ thành  một  phong  trào  xã  hội dân  sự  không  có  chi  phối  từ những ảnh hưởng bảo thủ của các giáo phái Phật giáo truyền thống.  Sự  hòa  nhập  này  có thể phổ biến sâu rộng hơn lập trường  đạo  đức  công  việc  của họ.  Tuy  nhiên,  nó  cũng  mang theo  mình  nguy  cơ  về  một  sự suy  thoái  sâu  sắc  hơn  về  tính đồng nhất và hệ tư tưởng Phật giáo  vốn  đã  mỏng  của  những tổ  chức  này.  Như  chúng  ta  đã thấy,  một  số  lớn  trong  họ  vẫn chuyên  tập  trung  vào  những hoạt động cứu tế mà chúng rất hạn chế ở lãnh vực quốc tế. Để một phong trào Phật giáo nhập thế  có  ảnh  hưởng  mạnh  mẽ vào sự phát triển xã hội dân sự bên trong Nhật Bản, những tổ chức  Phật  giáo  phi  chính  phủ của Nhật cần phát triển một hệ phê bình xã hội duy nhất được dựa trên những nguyên lý Phật giáo mà những Phật tử nhập thế trong những quốc gia khác đã làm.

Sự kiện ngày 11 tháng 9 và chiến tranh ở Iraq là một bước ngoặt khác trong việc phát triển tổ  chức  Phật  giáo  phi  chính phủ.  Đã  có  một làn  sóng  rầm  rộ kêu  gọi  hòa  bình phát  đi  từ  tất  cả những tổ chức Phật  giáo  từ  sau ngày  11  tháng  9. Tuy  nhiên,  người ta  cảm  thấy  rằng những tổ chức Phật   giáo   không dẫn   dắt   xã   hội Nhật  Bản  mà  chỉ đang cố theo đuổi hoạt động hòa
bình nhân đạo một   cách   chung chung.  Sự  cấp bách tìm kiếm phương  cách  giải quyết   sự   khủng hoảng này đã đưa đông   đảo   những tổ chức Phật giáo đi   đến   xem   xét sâu  sắc  hơn  về  những  gì  gọi là hòa bình, và kế đến, những khía cạnh tối quan trọng thật sự của  truyền  thống  Phật  giáo  là gì mà chúng có thể giải quyết vũng lầy tư tưởng hệ của trào lưu  chính  thống  Hồi  giáo  và chủ nghĩa dân tộc tôn giáo Hoa Kỳ. Đối với các giáo phái Phật giáo   truyền   thống,   điều   này trùng lặp với nỗ lực giải quyết khó khăn trong chiến tranh. Nỗ lực  này  có  thể  chứng  kiến  tại một buổi mít-tinh tổ chức vào tháng 2-2004 ở Tokyo với tựa đề  “Tìm  kiếm  hòa  bình  cho hiện   nay”   (
いま平和を求める)  bao  gồm  những  tổ  chức tôn giáo, trong đó gồm nhiều tổ chức  Phật  giáo  mới  và  truyền thống. Đây là một dấu hiệu lạc quan trong việc phát triển một hệ tư tưởng phê bình đích thực dựa trên Phật giáo và một quan điểm  lập  trường  đối  với  xã hội…

Kết  luận:  Lộ  đồ  cho  Phật  giáo nhập thế Nhật

Để  kết  luận,  tôi  xin  đưa  ra một  bản  phác  thảo  tổng  quát về những thành công và thách thức của phong trào Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản, điều mà tôi  gọi  là  một  Phật  giáo  nhập thế  đích  thực.  Thực  hiện  điều này,  tôi  lại  xin  đưa  ra  một  sự liên hệ ở bên ngoài Nhật Bản, phong  trào  của  vị  tăng  người Thái Phra Phaisan Visalo. Phra Phaisan là vị tăng dẫn đầu trong lĩnh vực phát triển ở Thái Lan hiện  nay  bởi  những  khả  năng và  hoạt  động  phi  thường  của ông.  Ở  tuổi  bốn  mươi  thì  ông đã  có  trên  hai  mươi  tuổi  đạo. Tuy  nhiên,  trước  khi  thọ  giới, ông là một nhà hoạt động xã hội trong giới sinh viên và là một người  hoạt  động  cho  tổ  chức phi chính phủ mà sự hiểu biết và kiến thức của ông về những vấn đề xã hội rất đặc biệt thành thạo. Ông thọ giới và tu học với một vị thiền sư nổi tiếng mà đời sống tâm linh và những phẩm chất  đạo  đức  của  vị  này  được người Thái vô cùng kính trọng. Sau khi thọ giới, ông trở thành một  nhân  vật  dẫn  đầu  trong nhiều đề án hoạt động xã hội, từ phát triển cộng đồng đến bảo vệ môi trường và cả chống bạo lực. Cuối cùng, ông đã viết một số bài viết và những quyển sách quan  trọng  về  hệ  thống  Tăng lữ Thái hiện tại và vai trò của tôn  giáo  trong  xã  hội  dân  sự. Cùng  với  giáo  sư  Nishikawa, ông  là  người  phát  ngôn  chính tại  buổi  ra  mắt  Mạng  lưới  tổ chức  Phật  giáo  phi  chính  phủ vào  tháng  7/2002.  

Trong  buổi nói  chuyện  của  mình,  ông  đã phác thảo ra bốn lãnh vực mà ông nhận thấy rằng những nhà hoạt  động  của  Phật  giáo  Nhật và những tổ chức phi chính phủ có thể phương tiện áp dụng cho việc phát triển một xã hội dân sự. Bốn lãnh vực này bao gồm:

1) Viện trợ nhân đạo; 2) Hoạt động hòa bình; 3) Phê bình hệ thống chính trị và xã hội hiện hành; và 4) “Phát triển” an bình nội tâm và hạnh phúc tinh thần. 

Tôi nghĩ bốn lãnh vực này cung cấp  cho  chúng  ta  một  khuôn khổ tốt để có được sự đánh giá cuối  cùng  về  phong  trào  Phật giáo nhập thế ở Nhật.

- Viện trợ nhân đạo

Như  chúng  ta  đã  thấy,  đây là  một  sức  mạnh  đặc  biệt  của những tổ chức Phật giáo Nhật. Trong  hơn  20  năm  qua,  họ  rõ ràng đã dùng một số vốn lớn từ nước  Nhật  cho  việc  phát  triển thế  giới  trong  tất  cả  mọi  loại viện trợ nhân đạo. Tất nhiên, có một số trong những viện trợ này không  được  chi  tiêu  một  cách khôn khéo. Tuy vậy, những tổ chức  Phật  giáo  phi  chính  phủ đã  rất  ý  thức  trong  việc  thực hiện viện trợ, biết nỗ lực phát triển những đề án đào tạo nghề nghiệp đúng đắn thay thế việc cứu  trợ  chung  chung,  như  hỗ trợ  huấn  luyện  nghề  thủ  công truyền thống.

- Hoạt động hòa bình

Đây cũng là một vấn đề quan trọng  xưa  nay  trong  những  tổ chức Phật giáo. Tuy nhiên, như tôi  đã  lưu  ý,  điều  cần  thiết  ở đây là nên thực tiễn hơn đối với thuật ngữ hòa bình, điều được nói  quá  nhiều  trong  những  tổ chức Phật giáo. Công việc nhiệt tâm của nhóm nhỏ tăng ni thuộc Nipponzam Myohoji là ủng hộ cho vấn đề này. Họ đã đặt đoàn thể và đời sống của họ vào dân chúng  khắp  nước  Nhật  và  thế giới   trong   những   cuộc   tuần hành hòa bình của mình, và là nhân chứng hòa bình ở những nơi như El Salvador, Cam-bốt, Sri Lanka và Trung Đông. Phra Phaisan xem những hoạt động thích đáng, những nhân chứng và những nhà hoạt động xã hội trong  những  vùng  khác  nhau của thế giới như vậy có thể là một  sự  đóng  góp  quan  trọng của những Phật tử Nhật.

- Phê bình hệ thống chính trị và xã hội hiện hành

Như  đã  lưu  ý,  đây  là  một điểm yếu của Phật tử Nhật, khi hầu hết họ đã chọn sự phê bình thế tục do những tổ chức xã hội dân  sự  khác  khởi  xướng.  Một trong  những  phương  diện  cốt lõi  của  sự  phê  bình  này,  như Phra  Phaisan  lưu  ý,  bao  gồm việc  phát  triển  những  giá  trị mới và những mô hình mới đối với xã hội. Ở đây tôi muốn đề nghị  rằng,  cần  phải  khơi  dậy lại những giá trị đạo đức Phật giáo  như Ahimsa  (Không  gây hại,  không  bạo  lực,  từ  bi,  hòa hợp…)  mà  Galtung  đã  nhấn mạnh, để giải quyết những vấn đề hiện đại và cung cấp những chuẩn mực phổ quát nhằm đặt nền  tảng  và  thắt  chặt  xã  hội Nhật  lại  với  nhau.  Cơ  sở  để khơi dậy lại những giá trị đạo đức  Phật  giáo  phải  bắt  đầu  từ việc cải cách Phật giáo Tang lễ và mở rộng sự thực hành Phật giáo vượt qua nghi lễ.

-  “Phát triển” an bình nội tâm và hạnh phúc tinh thần

Đây là sự mở rộng của việc khơi dậy lại những chuẩn mực đạo  đức.  Từ  quan  điểm  Phật giáo, để phê bình đúng đắn bản chất  đạo  đức  của  một  xã  hội đòi hỏi phải có sự phân tích có trí tuệ, nhưng cũng cần một sự truyền thụ tâm lý tình cảm mà việc  tu  tập  đem  lại.  Lãnh  vực này  có  lẽ  là  sự  đóng  góp  đặc biệt  nhất  và  cốt  tủy  nhất  mà Phật  giáo  có  thể  đem  lại  cho hoạt  động  xã  hội  dân  sự.  Tuy nhiên, đây cũng là lãnh vực yếu kém  nhất  của  Phật  giáo  Nhật Bản  hiện  nay,  khi  sự  chi  phối tài chính và thế tục trong nhiều năm đã làm giảm đi giá trị đời sống tâm linh của hầu hết những tổ chức Phật giáo Nhật. 

Những người tham gia vào hoạt động xã hội dân sự nếu có thực hành tu tập sẽ có được tâm lý và tinh thần xả bỏ mà chủ nghĩa nhân đạo thế tục không thể có được. Ví dụ, năng lực thiền tập có thể giúp tập trung tốt hơn vào công việc xã hội, tháo gỡ những quan điểm và lối hành xử tai hại, gây chia rẽ, và đem lại sự tươi tỉnh khi đảm nhận công việc xã hội lâu dài gian khổ.

 

 
 
   
 
  
Tìm kiếm

 
  
Tìm trên:     hoangphap.info web khác
Visitor Number: 
Hôm nay