Đạo Phật và dòng sử Việt
HT Thích Đức Nhuận
Trường A Hàm
Tuệ Sỹ dịch và chú
Triết học Thế Thân
Lê Mạnh Thát
  
 
   
 
 
Tính khế lý và khế cơ trong kinh Kim Cang
Tuệ Sỹ
Cập nhật: 13:02:00 28/11/2008

TÍNH KHẾ LÝ VÀ KHẾ CƠ TRONG KINH KIM CANG


Tuệ Sỹ

 

Kinh Kim  cang  là  kinh  rất phổ biến, ai cũng biết đến. Khóa  này  khi  giảng  kinh Kim cang  tôi  cũng  không  thêm  gì nhiều. Vậy  hôm  nay  học  kinh Kim cang chỉ có nghĩa là chúng ta cùng đọc lại, đọc chung, để tìm thấy ý nghĩa của kinh trong những  quan  hệ  thường  nhật; vận  dụng  kinh  như  thế  nào trong  cuộc  sống,  để  vượt  qua những  khó  khăn,  những  gút mắc,  những  tai  họa  mà  nhiều khi tưởng khó có thể vượt qua được.

Nói  cụ  thể,  phải  do  một hoàn cảnh nào đó tác động thì người ta mới hiểu được giá trị của  Kinh.  Những  ai  đã  từng trải  nghiệm,  sống  ở  tận  đáy của xã hội, bị ném xuống tầng lớp được xem là cặn bã của xã hội, khi cần phải khẳng định ý nghĩa và giá trị sinh tồn, khi ấy may  ra  mới  có  thể  hiểu  được một  cái  gì  đó  u  áo  trong  kinh Kim cang.

Kinh  nói,  “Nhất  thiết  hữu vi pháp, như mộng huyễn, bào ảnh.” Làm thế nào để nhìn tất cả đời sống này như một giấc chiêm bao, để thấy đau khổ hay hạnh phúc cũng chỉ như là giấc chiêm  bao.  Có  lẽ  quá  nhiều người  hiểu  rõ  điều  đó  và  nói quá  nhiều  về điều đó. Nhưng tỉnh giấc chiêm bao để thấy cái gì hư, cái gì thực, thì chắc là quá ít.

Tụng đọc Kim cang để hiểu những phạm trù triết học trong đó, để lý luận và phân tích cái gì là sắc, cái gì là không và thế nào là sắc tức thị không, điều đó chưa phải là quá khó. Nhưng, ngay  trong  sinh  hoạt  thực  tế, bằng  ý  nghĩa  Kim  cang  mà nâng  cao  phẩm  giá  của  mình, giá trị đời sống của mình, điều này chắc không phải là dễ.

Kim  cang  là  kinh  phổ  biến nhất  của  Đại  thừa.  Xu  hướng giảng kinh  Kim cang  tại  Việt Nam  trước  nay  phần  lớn  dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Trong Hán tạng có 6 bản dịch, mà  bản  dịch  của  ngài  Huyền Trang  và  La-thập  là  đại  diện hai   phong  cách  tư duy đối nghịch nhau. Tuy bản dịch của Huyền  Trang  được  đánh  giá là trung thành với nguyên bản Phạn hơn,  trong  khi  bản  La- thập  cải  biến  tương  đối  nhiều về mặt ngữ vựng và cú pháp, từ đó có thể khiến thay đổi luôn cả ý nghĩa nguyên thủy của kinh. Nhưng chính bản dịch của La- thập đã chuyển dịch Kim cang từ những tư biện hình nhi thượng, cùng chung huyết thống với Áo Nghĩa thư – Upanishad - thành những  giá  trị  nhân  sinh  để  có thể  dễ  dàng  tiếp  cận  bởi  xu hướng thiên trọng xã hội chính trị của Trung Quốc. Kim cang qua Hán dịch của La-thập – tất nhiên có sự đối chiếu với bản dịch của Huyền Trang – là một sự  tổng  hợp  tuyệt  vời  của  hai xu hướng tư duy dị biệt Ấn Độ và Trung Hoa.

Chính  sự  chuyển  dịch  văn học của kinh Kim cang từ La-thập  khiến  tạo  thành  một  hệ thống   thiền   ở   Trung   Quốc. Mặc dù trước đó người ta nói Bồ đề đạt ma đã  truyền Thiền tông qua kinh Lăng-già. Thiền Tông  chính  thức  bắt  đầu  từ Huệ  Năng,  chớ  không  phải  từ Bồ-đề-đạt-ma. Huệ Năng, một dân quê không hề biết đọc, biết viết, cho nên sự tỏ ngộ từ Kinh Kim-cang  là  sự  xác  lập Thiền tông trên cơ sở “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”.

Văn minh Ấn Độ mang đậm tín ngưỡng tôn giáo và triết học siêu hình. Cái tồn tại có thật là thế giới siêu việt bên kia, siêu việt  ngoài  các  giác  quan,  tai nghe,  mắt  thấy,  ngoài  cả  suy niệm bất khả tư nghì, tư tưởng không thể vươn đến, ngôn ngữ không thể diễn tả. Đó là cái thế giới chân thật. Điều này chung cho cả Phật giáo và cả Ấn Độ giáo.

Nhưng  Trung  Quốc  là  nền văn  minh  tư  tưởng  hiện  thực, chỉ lập cước trên đời này và thế giới  này.  Từ  Lão  Tử  cho  đến Khổng Tử, Mạnh Tử, Bách gia chư tử, triết học được xây dựng trên quan điểm chính trị và xã hội. Cái gọi là “đạo khả đạo phi thường đạo” của Lão Tử tuy có xu  hướng  giải  thích  trên  quan điểm siêu hình, nhưng về thực chất,  Đạo  đức  kinh  là  một  hệ thống tư tưởng mang nặng màu sắc chính trị xã hội.

Thực  ra  ý  nghĩa  siêu  hình của  nó  chẳng  qua  là  do  ảnh hưởng  của  Phật  giáo,  từ  đời Tống,  hoặc  từ  đời  Đường  trở đi, còn bản thân của nó từ nhà chú giải đầu tiên, mặc dù có vẻ siêu  hình  nhưng  thực  chất  là triết lý tự nhiên, là thế giới vũ trụ vật chất. Thế giới của Đạo là thế giới cụ thể, thế giới thiên nhiên. Cái Đạo đó không thể là bản thể siêu hình nhưng về sau được  diễn  giảng  bằng  bản  thể siêu hình do tác động của Phật giáo.

Trong thiền học có một câu chuyện  về  kinh  Kim  cang,  về một bà già bán nước dưới chân chùa. Bà ấy trình độ học không có  bao  nhiêu.  Bấy  giờ  Đức Sơn  là  người  đã  từng  giảng kinh  Kim  cang  rất  nhiều  lần, muốn tìm đến các thiền sư để luận  đạo.  Trên  đường  đi,  ông ghé vào quán nước. Bà già bán nước thấy ông có mang một đãy kinh,  hỏi  “Thầy  mang  kinh  gì thế? Ông nói “Kinh Kim cang! Tôi  trì  kinh  Kim  cang,  giảng kinh Kim cang mấy chục năm nay  rồi.”  Bà  hỏi:  “Thầy  cần gì?” Ông nói: “Tôi muốn điểm tâm.”  Bà  lão  nói:  “Kinh  Kim cang Phật có nói, quá khứ tâm bất  khả  đắc,  hiện  tại  tâm  bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Thầy muốn điểm cái tâm nào?” Tức là tâm quá khứ, chúng ta không  bắt  được  nó. Tâm  hiện tại,  ta  không  bắt  được  và  tâm vị lai ta cũng không bắt được. Ba cái tâm này vốn không thể nắm bắt, vậy điểm cái tâm nào?

Ông thầy bí lối, không biết trả lời ra sao.

Chuyện thiền này là hư cấu văn  chương  hay  chuyện  thật, không  quan  trọng.  Điểm  nên nói, đó là người ta muốn chứng tỏ rằng ngay cả người bán nước thất học ở bên Trung Quốc cũng có  nghe  biết  về  kinh.  Không những thế, còn có thể hiểu sâu sắc  về  ý  nghĩa  của  kinh.  Như ngài Huệ Năng không cần chữ nghĩa, mà chỉ cần kinh nghiệm đời  sống  thì  có  thể  hiểu  được kinh Kim cang.

Câu chuyện trên cho thấy ảnh hưởng của kinh Kim cang trong đời sống thường nhật trong xã hội  xưa  của  Trung  Quốc.  Từ đó, ta có thể  hiểu được sự thâu hóa  và  dung  hợp  của  hai  nền văn hóa, Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Ấn Độ, khác nhau như thế nào, hiểu được cái tổng hợp như thế nào.

Tôi  muốn  nói  thêm  điểm này. Một bản kinh Kim cang từ Ấn Độ, trong đó tư tưởng vượt lên khái niệm dung tục về một Thượng  đế  hữu  ngã.  Và  một bản kinh Kim cang với triết lý mà từ bà già bán nước cho đến võ  sĩ  hay  những  người  chăn trâu, chăn bò, những   người hàng ngày đốn củi  như  Huệ Năng vẫn có thể hiểu được. Hai cái mức, một người đi tìm cái chân  lý  tối  thượng,  cái  tự  ngã cao  siêu  tuyệt  đối  của  mình; với  một  người  đi  tìm  cái  lẽ sống  hàng  ngày  như  đói  ăn, khát  uống,  đấu  tranh  vật  lộn với đời. Cả hai phương diện đó khác  nhau,  kinh  Kim  cang  có hai dạng khác nhau. Trong hai cái này, chúng ta nói đến khế lý và khế cơ.

Khế lý là chân lý không thể thay đổi, một chân lý phổ biến; dù  ở  bên  Tây  hay  Tàu,  Phi châu  hay  Ấn  Độ,  vẫn  có  một lý chung: chân lý hiện thực đau khổ. Từ những nỗi khổ của mọi loài, ta nhìn cuộc đời, từ những đấu tranh để sinh tồn, trong ý nghĩa nào? Khi đấu tranh chống lại thiên nhiên, mưa, lạnh, đói khát... khi chống lại như vậy để đạt  được  mạng  sống  thì  trong cái chống phải có một chân lý. Con kiến mà không đạt đến một sự thật thì không bao giờ nó tìm ra được thức ăn. Trong thức ăn, có  sự  thật  để  nuôi  dưỡng  nó. Tự bản năng, con kiến vẫn phải hấp thụ ngoại giới để mà sống. Vậy, nếu nó tìm đúng thức ăn thì sống; nếu nhầm lẫn, thì nó chết. Cái chân lý, hay sự thật, làm cho nó sống.

Con kiến, và tất cả mọi cái tồn  tại  được,  đều  nương  vào sự  thật.  Nhưng  khám  phá  ra sự  thật  này,  sự  thật  tối  hậu, duy  chỉ  có  đức  Phật.  Khi  nào chúng ta nhìn thấy được sự thật và sống hoàn toàn với sự thật, bấy giờ mới giải thoát mọi thứ khổ  lụy  nhân  sinh. Không  có sự  sống  nào  mà  không  được duy  trì  bằng  sự  thật,  những bên  ngoài  bị  bao  bọc  bởi  tấm màn hư ảo bất thực. Chân lý và giá trị của sự sống không do ai phán truyền, đây là điều chúng ta cần chiêm nghiệm bằng kinh nghiệm của mình để hiểu kinh Kim cang.

Kinh Kim cang nói đủ ra là một  hệ  Ma-ha  Bát-nhã  ba-la- mật-đa. Bát nhã là gì? Đó là trí tuệ. Trí tuệ là gì? Là nhận thức sự  thật,  nhìn  thấy  chân  lý.  Sự hiểu biết nào nhận rõ được sự thật, chân lý và chân lý đó đem lại an lạc, hạnh phúc vĩnh viễn, lâu dài mà ta gọi là bất tử, vĩnh hằng, nếu có, thì sự thật đó, cái thấy đó, cái nhận thức đó, được gọi  là  trí  bát  nhã,  được  gọi  là sự thật.

Kinh Kim  cang  đưa  chúng ta  đi  để  thấy  sự  thật  đó.  Mọi sự thật đều tạo ra an lạc nhưng sự  thật  bị  bao  phủ  trong  hàng trăm, hàng triệu lẽ thật của nó, mỗi  lẽ  thật  bị  bao  gồm  vô  số ảo ảnh bên ngoài. Nhìn thấy sự thật  tùy  theo  căn  cơ,  tùy  theo góc  nhìn.  Đứng  ở  đâu,  từ  góc nào, để thấy được sự vật đúng như nó là nó. Nguyên tắc để mà nhìn, để quan sát; cách nhìn đó được gọi là khế cơ.

Ở trong vũ trụ này, chúng ta có thân xác vật lý. Tôi đứng ở vị trí này thì người khác không thể  đứng  chỗ  đó  được.  Cho nên tôi thấy cái mà người khác không  thể  thấy.  Nếu  tôi  đứng nhích qua một bên để người đó thấy được, thì lúc ấy thời gian đã thay đổi; sự vật thay đổi liên tục, dịch chuyển theo thời gian, dịch  chuyển  theo  không  gian. Thấy  đúng  sự  thật,  đúng  với thời  gian,  không  gian  của  nó; thấy  được  sự  thật  đó,  và  nắm được sự thật đó, thấy được chân lý của nó, đó mới là khế cơ.

Kinh   Phật   được   hiểu   tùy theo  thời  đại.  Cái  thái  dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này. Cho nên, có lúc chỉ có thể  áp  dụng  được  giáo  lý  của Phật  Thích  Ca,  tồn  tại  trong khoảng  đó,  vượt  ra  thì  không còn gì nữa.

Như vậy, trong cái dòng khế cơ, thì cái cơ chúng ta như thế nào, điều kiện như thế nào, để hiểu kinh Kim cang?

(Ts Pháp luân 56)          

 

 
 
   
 
  
Tìm kiếm

 
  
Tìm trên:     hoangphap.info web khác
Visitor Number: 
Hôm nay