“Le
travail
est
un trésor
d’or.”
QUẢNG THÔNG
“Ai làm việc lui cui ở dưới đó vậy?” -“Bác đạo hữu già nào ấy.” -“Hình như bác ấy đang làm cỏ vườn thì phải.” - “Có thấy Thầy, chú mô đâu, đi học đâu cả hết rồi ấy.” -“Để mình xuống dưới đó hỏi bác ấy coi.”
Đó là một cuộc trò chuyện của một nhóm ba bốn bác đạo hữu ở vườn trên. Họ vừa mới đến chùa, hình như đã vào chánh điện lễ Phật rồi thì phải. Họ đang đi vãng cảnh, tìm xem có chú điệu nào không. “Quái lạ, sao chùa viện mà vắng hoe thế không biết”-Câu chuyện lại tiếp tục. “Chùa thì phải vậy chứ. Thanh tịnh, yên lắng, sạch sẽ, ngăn nắp là nếp sống của nhà chùa mà.” - Một vị trả lời.
Hòa thượng (sư thúc của Thầy tôi) và hai anh em tôi đang lặng lẽ làm cỏ trong vườn mai. Có lẽ người ta chỉ nhìn chợt thấy Hòa thượng trong bộ đồ chiếc áo mi-dô giản dị lui cui trong vườn nên họ tưởng là bác đạo hữu nào đó đang làm công quả. Tôi bảo sư đệ tôi lên coi tiếp khách giùm, còn Hòa thượng và tôi tiếp tục làm cỏ. Cỏ trong vườn mai không nhiều lắm, chỉ là những cây con mới mọc, nhưng phải làm ngay vì để lâu ngày cây mọc lớn, sinh hạt nhiều, ngôi vườn sẽ thêm bê bối, lôi thôi lắm. Hòa thượng bảo làm vườn như chăm sóc ngôi vườn tâm của mình vậy, đừng để cho nó quá bê bối. Hòa thượng ngày nào cũng ra làm cỏ vườn, cái cuốc nhỏ, cái bay, cái xúc rác luôn có trên tay. Mấy cây mai tốt phủ xanh um che phủ trên đầu. Muốn nhìn lên, chúng tôi phải đứng dậy, nhón chân cho tầm mắt vượt khỏi mấy lùm mai mới thấy rõ người ở vườn trên; còn những người ở trên sân phải khom người xuống, che mắt nhìn vào những gốc mai mới mong thấy được có bóng người nào trong đó. Thế là đôi khi chúng tôi với khách thập phương như đang chơi trò ú tìm với nhau. Nhưng chúng tôi thì chẳng cần đứng dậy bao giờ, chỉ lắng tai một chút là nghe được tiếng người ta đang nói gì trên đó. Nhiều người đến lễ Phật, đi đạo quanh chùa, nói nói cười cười vài tiếng, thưởng thức hoa cỏ phong cảnh chùa một chốc, rồi ra về. Thỉnh thoảng có vài người có công việc cần đến sự giúp đỡ của quý Thầy, hoặc cần gặp Thầy chúng tôi, họ mới tìm gặp quý Thầy quý chú để hỏi thăm. Khi cần chúng tôi mới tiếp khách ở nhà khách, ngoài ra chúng tôi đều dành thời gian cho sự thanh tịnh vốn có của chùa. Mỗi tháng chùa có một kỳ thọ Bát Quan Trai, và các dịp Tết, lễ lớn, còn lại thì không khí thiền viện vẫn yên lắng thanh tịnh như thế đó.
Hòa thượng và hai anh em tôi lại tiếp tục công việc của mình. Không khí của một buổi sáng đẹp trời như thế thật trong lành, dễ chịu. Hòa thượng thường bảo, “Le travail est un trésor d’or.” Ôn nói bằng tiếng Pháp rồi dịch ra tiếng Việt cho chúng tôi hiểu: “Làm việc là một kho vàng.” Đây là câu nói đầu miệng và cũng là phương châm của Ôn. “Nhờ làm việc mình mới khỏe ra được và có niềm vui. Làm việc cũng niệm Phật”-Ôn nói. Ôn niệm Phật Dược Sư. Ôn là dược sĩ nên Ôn có niềm tin sâu sắc nơi Đức Dược Sư. Ôn bảo, hồi Ôn còn làm việc cho bệnh viện, khám chữa bệnh bằng thuật châm cứu cho người ta, Ôn đều nhất tâm niệm danh hiệu Đức Dược Sư. Nhờ sự gia hộ của Ngài mà Ôn đã cứu chữa thành công được nhiều trường hợp bệnh nặng. Ôn nói, “mình chỉ là phương tiện để cho lòng Từ bi của Đức Phật biểu lộ, chỉ phương tiện thôi.” Có nhiều lần Ôn gặp bệnh nguy lắm, không có người chăm sóc, vì tính Ôn vẫn thích tịch mặc, sống một mình, không có đệ tử, không có bổn đạo, không có một trú xứ nhất định nào hết. Thế mà nhờ niệm Dược Sư, Ôn đã qua được nhiều khúc quanh một cách lạ lùng. Cố nhiên, không phải Đức Phật hiển linh thần biến gì đâu, mà do cảm ứng thế nào ấy, nên bất thình lình, không hẹn, mà cũng có các vị bác sĩ, dược sĩ tình cờ gặp được tình trạng của Ôn và kịp thời cứu chữa. “Thật kỳ diệu! Mình tin Phật thì không có gì làm không được”- Ôn thường nói. Cho đến bây giờ đã 83 tuổi rồi nhưng Ôn vẫn siêng năng làm vườn, vẫn vẽ tranh Phật, nắn tượng Phật khéo léo lắm. Ôn bảo đó là nhờ long thần Hộ pháp giúp đỡ chứ thực sự mình không làm gì hết.
Làm việc là một kho vàng, quả là Ôn đã đổi được kho báu vô giá đó vì đến tuổi này mà Ôn cũng không bị đau yếu gì nhiều. Ngày nào cũng giản dị ra vào, làm việc. Ăn uống thì cực kỳ đạm bạc và cố tránh những thức ăn có nhiều hóa chất. Ôn bảo nó không tốt cho cơ thể. Có lẽ nhờ cách sống đó mà Ôn vẫn khỏe được như thế.
Câu châm ngôn của Ôn làm tôi nhớ đến câu châm ngôn đã làm nguyên tắc sống của Ngài Bách Trượng Hoài Hải, một Đại thiền sư Trung Hoa sống vào khoảng 720-814. Bộ Bách Trượng Thanh Quy của ngài đã được lưu truyền làm cương lĩnh cho sinh hoạt thiền viện trong nhiều thế kỷ trước. Tuy nay đã mất nhưng nó cũng được sao soạn lại với nội dung tương tự tiếp tục làm nguyên tắc cho đời sống thiền viện. Trong đó lưu truyền một câu nói nổi tiếng của chính ngài Bách Trượng. Ngài nói: “Nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn). Có một giai thoại, một câu chuyện đẹp, về câu châm ngôn này của Tổ. Chuyện kể rằng, có lần các vị đệ tử của Ngài thấy Ngài tuổi đã già mà vẫn lam lũ với những công việc vườn tược, họ đã giấu hết dụng cụ làm vườn của Ngài sau khi đã hết sức khuyên ngăn mà Ngài chẳng nghe, vẫn nhất quyết phải làm vườn, làm ruộng như bao thiền sinh khác. Cuối cùng Ngài quyết định không ăn uống gì cho đến khi các đệ tử hiểu ra và trả lại dụng cụ làm vườn cho Ngài.
Chấp lao phục dịch, làm những công việc lặt vặt tay chân là điều cần thiết để thực hành thiền định trong đời sống hàng ngày của thiền giả. Nó làm khí huyết lưu thông, tránh được sự trì trệ của tâm trí rất dễ phát sinh do thói quen thiền định. Đồng thời từ những sinh hoạt lao động tay chân đó giúp hành giả kiểm nghiệm các bài học qua những giờ thiền quán và học được một cách trực tiếp từ đời sống thực tế, mà không chỉ thuần túy qua sách vở. Vai trò của việc chấp lao phục dịch, xách nước, chẻ củi, làm việc tay chân quan trọng như thế trong nếp sống thiền môn nên người hành thiền không từ nan bất cứ công việc nào, dù công việc đó có vẻ không thích hợp với một người có văn hóa, có học thức. Không công việc gì hạ thấp nhân phẩm của họ cả. Cầm bút chép kinh hay cầm chổi quét vườn, chùi cầu tiêu, tất thảy đều bình đẳng như nhau, đều được coi như nhau mà người hành thiền đều có thể làm được hết những chuyện đó.
Ở đây, cũng không phải không nghĩ đến chuyện, một người thọ cơm đàn na tín thí thì phải làm cái gì đó cho Tam Bảo, nếu không thì cơm tín thí sẽ trở nên khó tiêu lắm (tín thí nan tiêu). Nhưng với ý nghĩa trên thì chuyện làm việc trong thiền môn đã vượt qua khỏi ý nghĩa luẩn quẩn, mà dân gian thường nói là, “làm làm ăn ăn, ăn ăn làm làm” để vươn đến một mục đích thiền định cao hơn nhiều.
Hòa thượng làm cỏ, quét sân, tưới cây, đắp tượng, nhưng chỉ một niệm duy nhất là niệm Phật nên công việc tuy có đó mà như không, làm đấy mà như không làm, tạo ra thành quả lao động đó nhưng rồi quên mất. Ý nghĩa “kho vàng” của Ôn cũng đâu có kém phần triết lý và sinh động của nó.
Ôn đã tìm được kho vàng vô giá nên những thứ khác đâu còn giá trị gì nữa. Đó là niềm vui. Làm việc đúng là một nguồn vui.
Ôn quét sân nhưng không coi mình là Hòa thượng đang quét sân trong khi đó nghĩ đến chú tiểu đang ngon giấc ở trong kia. Chỉ có việc quét sân là tồn tại trong giờ phút đó mà thôi. Chú tiểu ngủ nhưng sau đó chú có công việc của chú, có bổn phận trách nhiệm của chú. Thế nhưng quét sân lại cũng chẳng phải là một bổn phận hay trách nhiệm gì cả, nó thuần túy là một công việc. Nó là niềm vui. Đẹp như thế đó.
Năm nay mùa xuân về, đời lại chất lên thêm cho Ôn một tuổi nữa. Tuổi đời cao dần và quy luật thì cái nào cao là cái sẽ sụp đổ trước. Ngả trước hay ngả sau, sớm hay muộn, đối với Ôn không gì quan trọng. Quan trọng là Ôn đã tìm được niềm vui trong nếp sống thanh cao đạo hạnh, nếp sống trong hiện tại với những công việc hết sức bình dị và khỏe khoắn. Mặc cho tuổi đời lên cao, mặc cho mùa xuân đến rồi đi, mặc cho bao lo toan của cuộc sống, tất cả chỉ là giấc mộng, đều chỉ là hôm qua mà thôi và nó mãi đã qua rồi.
Ôn đứng đó giữa khu vườn xưa cũ nhưng mới tinh thêm, rực rỡ thêm với những nụ mai vàng lung linh trong nắng xuân tươi sáng và nụ cười hiền hòa vẫn nở rạng trên môi.
“Le travail est un trésor d’or.”±
|