Đạo Phật và dòng sử Việt
HT Thích Đức Nhuận
Trường A Hàm
Tuệ Sỹ dịch và chú
Triết học Thế Thân
Lê Mạnh Thát
  
 
   
 
 
Ngài Huệ Năng: chương 1-Hành trạng
HT Thích Trí Quang
Cập nhật: 08:08:15 23/12/2009

Hành trạng

 

 

Lời nói đầu

Tập sách về Ngài Huệ-Năng sau đây lấy kinh PHÁP BẢO ĐÀN làm tài liệu chính. Ban đầu tôi đã viết những lời tựa cần thiết, nhưng trong và sau khi viết xong, thấy muốn đổi ý.

Tôi có cảm giác rõ rệt mình viết cho mình. Thì gian viết tập sách này, quả là thì gian mà vang bóng của Ngài Huệ-Năng đã nâng đỡ và giáo dục cho lòng tôi rất nhiều. Cảm bội "lòng từ bi thương xót đến cả vị lai" của Ngài, tôi xin ghi lại ở đây để phụng hiến lên Ngài tấm lòng chí thành chí kính.

Tháng Mười, 2503.

TRÍ QUANG


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1

SỰ ĐẮC – PHÁP

 

Nói đến sự đắc pháp của Ngài Huệ-Năng, không chỉ bằng trích dịch nguyên văn kinh Pháp-bảo-đàn. Nguyên văn ấy, quý ở chỗ chính là lời Ngài Huệ-Năng đã tự thuật, trong đó lộ được hết cái bản sắc của Ngài. Xin nhấn mạnh điều đó, vì cái bản sắc hoàn toàn của Ngài Huệ-Năng thật đã được thể hiện trong những lời Ngài tự thuật sau đây, tại giảng đường chùa Đại Phạn, Thiều Châu:

Các vị Thiện tri thức! Tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật.

Các vị Thiện tri thức! Xin nghe hành trạng và cái ý sự đắc pháp của tôi. Thân phụ tôi nguyên quán ở Phạm Dương, sau thiên qua Lãnh-Nam, làm kẻ thường dân của Tân-Châu. Tôi sinh ra đã bất hạnh, cha lại mất sớm, còn một mẹ già dời qua Nam-Hải, khốn khổ nghèo nàn, nên tôi làm nghề bán củi ở chợ. Một hôm, có một người mua củi, bảo tôi gánh đến nhà, khách lấy củi, tôi được tiền rồi, bước ra cửa thì nghe một người tụng kinh. Vừa nghe lời kinh, tâm tôi đã khai ngộ, nên hỏi người ấy tụng kinh gì? Người ấy cho biết tụng kinh Kim-Cang. Tôi lại hỏi Ngài ở đâu và ai dạy tụng Kinh ấy? Người ấy trả lời: Tôi ở chùa Đông Thuyền, huyện Hoàng Mai, thuộc xứ Kỳ Châu. Chùa ấy do tổ sư thứ năm là Ngài Hoằng Nhẫn làm chủ giáo hóa cho môn nhân trên ngàn người. Tôi bái thọ Kinh này ở đấy. Tổ sư khuyên tại gia cũng như xuất gia, chỉ thọ trì kinh Kim Cang là kiến tánh thành Phật.

Tôi nghe những lời ấy cảm biết mình có túc duyên, lại nhờ có một người cho mười lượng bạc, khiến tôi sắp đặt cho mẹ già mà tìm đến yết kiến Tổ sư. Tôi sắp đặt cho mẹ già rồi, tức thì từ biệt Không quá một tháng, tôi đã đến Hoàng Mai, đảnh lễ Tổ sư. Tổ sư hỏi: Ngươi ở đâu? Đến đây muốn gì? Tôi thưa: Con là kẻ thường dân ở Lãnh Nam, từ xa đến đây đảnh lễ Ngài, lòng chỉ cầu làm Phật mà không muốn một điều gì khác. Tổ sư dạy: Ngươi là người Lãnh Nam, lại là kẻ quê mùa, thì làm sao mà làm Phật được? Tôi bạch: Con người có nam có bắc, nhưng Phật tánh vốn không bắc không nam; cái thân quê mùa, không giống với thân của Tổ sư, nhưng Phật tánh thì có gì khác biệt?

Tổ sư còn muốn nói với tôi nữa, nhưng thấy đồ chúng đứng cả hai bên, nên bảo tôi hãy theo chúng mà làm việc. Tôi thưa: Huệ-Năng con xin kính bạch Tổ sư, tự tâm con thường sanh trí tuệ, không rời tự tánh ấy tức là công đức, vậy Ngài dạy con làm những việc gì? Tổ sư dạy rằng: Kẻ quê mùa này thật là lợi căn, thôi, người đừng nói nữa, hãy xuống nhà dưới mà làm việc. Tôi vâng lời xuống nhà dưới, có một vị hành giả bảo tôi bửa củi và giã gạo. Hơn tám tháng, một hôm Tổ sư bỗng xuống gặp tôi, bảo rằng: Ta biết kiến địa của con có thể dùng được, nhưng sợ có kẻ ác tâm hại con, con hay chăng? Tôi bạch rằng: Con cũng biết ý của Tổ sư nên không dám đi qua trước thuyền đường, sợ mọi người hay biết.

Một ngày nọ, Tổ sư kêu hết thảy môn đồ lại, bảo rằng: Người đời sinh tử là đại sự, các người suốt ngày cầu phước mà không cầu thoát ly sanh tử, các người đâu biết tự tánh nếu mê thì phước nào cứu được! Vậy các ngươi hãy đi ra, y theo tánh bát nhã của tự tâm mà làm mỗi người một bài kệ cho tôi xem. Ai ngộ được thì tôi sẽ phú y pháp cho, làm vị Tổ sư thứ sáu. Ra ngay và làm nhanh lên, không được suy tưởng, suy tưởng tức không trúng. Người kiến tánh thì nói ra là kiến tánh tức thì. Người như thế thì cho dẫu lúc ở trong chiến trận cũng vẫn kiến tánh.

Mọi người nghe Tổ sư dạy như thế, phụng mạng mà ra, nhưng lại bảo nhau: Chúng ta miễn làm kệ; thượng tọa Thần-Tú hiện làm giáo thọ cho chúng ta, thế nào người cũng được Tổ sư phú y pháp, sau này chúng ta chỉ nương dựa nơi người là được. Phần thượng tọa Thần Tú thì người nghĩ rằng mọi người không trình kệ là vì họ nghĩ có ta là vị giáo thọ của họ, nên ta phải làm kệ để trình lên Tổ sư. Ta không trình kệ thì Tổ sư làm sao biết kiến giải của ta sâu hay cạn. Ý ta trình kệ là để cầu pháp, chứ trình kệ để được làm Tổ sư thì có khác chi đem tâm niệm phàm phu chiếm đoạt địa vị bực thánh. Nhưng không trình kệ thì không thể đắc pháp. Thiệt là khó nghĩ.

Trước thuyền đường của Tổ sư có dãy nhà ba gian. Tổ sư ý muốn nhờ quan Cung phụng là Lô Trân vẽ những bức họa theo kinh Lăng già và những đồ biểu về hệ thống đắc pháp của năm vị Tổ sư để lưu truyền cúng dường. Thượng tọa Thần-Tú làm kệ xong rồi, mấy phen muốn đem trình Tổ sư, nhưng mỗi lần đi đến dãy nhà ấy thì trong lòng lại hồi hộp, toát mồ hôi khắp mình, nên trình không được. Qua 4 ngày và 13 lần như vậy mà việc trình kệ vẫn không xong. Thượng tọa Thần-Tú bèn suy nghĩ: Hãy viết lên vách nhà ấy cũng được. Rồi Tổ sư thấy, nếu Ngài bảo được thì ta ra đảnh lễ và bạch Ngài kệ ấy ta làm, còn nếu Tổ sư bảo không được thì ta phải tự thấy uổng phí bao năm ở đây mà chưa thấy đạo. Nghĩ vậy rồi, canh ba đêm ấy, Thượng tọa Thần-Tú không cho ai hay, tự cầm đèn viết bài kệ của mình đã làm lên vách chái phía nam. Bài kệ ấy như sau:

     

         

       

  使            勤惹  

Viết xong, Thượng tọa về phòng, không ai hay biết. Thượng tọa lại nghĩ: Như Tổ sư thấy bài kệ ấy mà hoan hỷ thì ta có nhân duyên đắc pháp, còn nếu Ngài bảo không được thì ấy là tự ta mê muội, nghiệp cũ sâu dày, nên không đáng đắc pháp. Suy nghĩ như vậy cho đến canh năm, nằm ngồi không yên.

Phần Tổ sư, từ lâu đã biết Thượng tọa Thần-Tú chưa kiến tánh được. Sáng ngày hôm ấy, Ngài cho mời ông Lô-Trân đến để nhờ vẽ lên vách những bức họa đã định, bỗng thấy bài kệ, Ngài liền bảo: Quan Cung phụng, thôi, đừng vẽ nữa, thật là phiền cho ông từ xa đến đây. Nhưng trong kinh có dạy: phàm các hình tướng đều là hư vọng. Vậy chỉ nên giữ bài kệ này lại cho mọi người thọ trì, y theo bài kệ nầy mà tu thì khỏi sa vào ác đạo. Y theo bài kệ này mà làm thì được đại lợi ích. Nói rồi, Ngài lại dạy đồ chúng hãy thắp hương mà kính lễ và trì tụng bài kệ ấy thì sẽ được kiến tánh. Đồ chúng tụng bài kệ ấy, ai cũng khen là rất quý báu. Canh ba, Tổ sư gọi Thượng tọa Thần-Tú vào thuyền đường, hỏi: Bài kệ ấy ông làm phải không? Thượng tọa bạch rằng: Thật chính con làm; con không dám vọng cầu ngôi vị của Tổ sư, con chỉ mong Ngài từ bi xét cho con có chút trí tuệ nào không mà thôi. Tổ sư bảo: Bài kệ ông làm đó chưa kiến tánh; ông mới đến cửa ngoài, chưa vào cửa trong. Đem kiến giải ấy tìm Vô thượng bồ đề thì thật chưa được. Vô thượng bồ đề là ngay nơi một lời nói mà thấy được bản tâm, kiến được bản tánh, bất sanh bất diệt; bất cứ lúc nào, niệm niệm tự thấy; vạn pháp viên dung, một chân tất cả đều chân. Vạn pháp tự như như, tâm như như là chân thật: kiến giải như vậy là thấy được tự tánh của Vô thượng bồ đề. Ông hãy ra suy nghĩ trong một vài ngày, làm một bài kệ nữa đem vào cho tôi, tôi xem nếu ông nhập môn được thì sẽ phú y pháp cho ông.

Thượng tọa Thần-Tú đảnh lễ và lui ra. Qua mấy ngày làm kệ cũng không thành, trong tâm hồi hộp, tư tưởng bất an như người ở trong mộng, đi đứng không vui.

Hai ngày sau, một đạo đồng ngang qua chỗ giã gạo, xướng tụng bài kệ của Thượng tọa Thần Tú. Tôi mới nghe, biết liền bài kệ ấy chưa kiến tánh. Tuy tôi chưa được mong ơn Tổ sư chỉ dạy, nhưng đã biết ý chỉ của Ngài. Tôi hỏi đạo đồng: tụng bài kệ gì đó? Đạo đồng bảo: Cái anh quê mùa này, anh không biết Tổ sư có dạy người đời sanh tử là đại sự, muốn truyền phú y pháp nên Tổ sư bảo đồ chúng mỗi người làm một bài kệ để Tổ sư xem, nếu ai ngộ được tâm tánh thì Ngài phú y pháp cho để làm vị Tổ sư thứ sáu. Thượng tọa Thần-Tú viết lên vách chái nhà phía nam, bài kệ "vô tướng" mà Thượng tọa đã làm nên Tổ sư dạy mọi người phải tụng bài kệ ấy mà tu thì khỏi đọa ác đạo, y theo bài kệ ấy mà làm thì được đại lợi ích. Tôi thưa đạo đồng: Thưa thượng nhân, tôi đạp chày giã gạo đã hơn 8 tháng nay, chưa bao giờ dám đến trước thuyền đường, xin thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ để được lễ bái. Đạo đồng dẫn tôi đến, lạy xong, tôi nói: Huệ-Năng tôi không biết chữ, xin thượng nhân đọc cho. Bấy giờ đứng ở đấy có quan Biệt giá Giang Châu, họ Trương, tên Nhật Dụng, liền cao tiếng đọc lên. Tôi nghe rồi, thưa rằng tôi cũng có một bài kệ, kính nhờ quan Biệt giá viết giúp. Quan Biệt giá kinh ngạc: Anh mà cũng biết làm kệ sao, thật là việc hiếm có! Tôi thưa rằng: Muốn học đạo Vô thượng bồ đề thì chớ khinh kẻ sơ học; người thấp nhất có thể có cái trí cao nhất, còn người cao nhất cũng có thể không có trí tuệ gì cả! Quan Biệt giá nói: Anh hãy đọc bài kệ lên, tôi viết cho anh; nếu anh đắc pháp thì trước hết phải độ cho tôi, xin đừng quên lời. Tôi bèn đọc rằng:

       

       

       

         

Bài kệ viết xong, mọi người đều kinh ngạc, bảo nhau: Kỳ thay, chúng ta không nên lấy hình dạng mà coi người; chúng ta đâu được phép sai khiến mãi vị Bồ tát xác phàm này! Tổ sư nghe thấy mọi người kinh quái như vậy, sợ có kẻ ác tâm làm hại, nên ra lấy giày chà bài kệ đi mà bảo rằng: Bài này cũng chưa phải kiến tánh. Mọi người đều cho là phải.

Hôm sau, Tổ sư kín đáo đi xuống nhà dưới, thấy tôi nai lưng giã gạo, bảo rằng: Người cầu đạo phải như vậy đó. Lại hỏi gạo đã trắng chưa? Tôi bạch rằng gạo trắng lâu rồi, chỉ thiếu cái sàng nữa mà thôi. Tổ sư bèn lấy gậy gõ nơi cối 3 lần rồi bỏ đi lên. Tôi hội ý, canh ba đêm ấy vào thuyền thất của Tổ sư. Tổ sư bèn lấy ca sa choàng lên mình tôi, không cho ai thấy, rồi giảng cho tôi nghe bản kinh Kim Cang. Khi Tổ sư giảng đến câu: "ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm" ngay nơi câu ấy, tôi tức thì đại ngộ hết thảy vạn pháp không rời tự tánh, bèn bạch với Tổ sư: Đâu có dè tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh diệt, vốn tự viên mãn, vốn bất động chuyển, vốn sanh vạn pháp! Tổ sư biết tôi đã ngộ bản tánh, bèn dạy rằng: Không biết tự tâm thì học đạo vô ích; nếu biết tự tâm, thấy tự tánh, thì đấy chính là kẻ đại trượng phu!

Thế là canh ba đắc pháp, không một ai hay, Tổ sư truyền thọ đốn giáo và y bát cho tôi và dạy rằng: Ông là vị Tổ sư thứ sáu, hãy khéo tự hộ niệm, quảng độ chúng sanh, lưu truyền đạo pháp cho tương lai, đừng để bồ đề tuyệt chủng. Hãy nghe bài kệ của ta đây:

                               

                                

                               

             

Tổ sư lại dạy rằng: Xưa kia, khi Đạt Ma Tổ sư đến quốc độ này thì mọi người chưa ai tin, nên truyền ca sa để làm tín thể, đời đời tiếp thọ. Nhưng đạo pháp là lấy tâm truyền tâm làm cho tự ngộ tự biết. Từ xưa, chư Phật duy truyền bản thể, chư Tổ mật phú bản tâm, còn ca sa là cái gốc của sự tranh chấp, vậy đến ông là đình chỉ. Nếu ông truyền phú ca sa ấy nữa thì tánh mạng ông chỉ như sợi tơ. Ông nên đi khỏi chỗ nầy cho mau, không thì có kẻ làm hại. Tôi thưa: Con nên đi về xứ nào? Tổ sư dạy: "Phùng Hoài tắc chỉ, ngộ Hội tắc tàng". Canh ba đêm ấy lãnh y bát xong, Tổ sư đưa đến bến Cửu-giang, bảo tôi lên thuyền, tôi liền cầm lấy chèo; Tổ sư bảo: Để Ta độ ông qua sông. Tôi bạch: Khi con mê thì Tổ sư độ con, nay con ngộ rồi thì con phải tự độ; cái tiếng hóa độ tuy một mà cách dùng thì khác nhau. Huệ Năng con sanh ra ở chỗ biên địa, đến nỗi tiếng nói cũng không đúng; nay mong ơn Tổ sư phú pháp khiến con được liễu ngộ rồi, thì con phải tự tánh tự độ. Tổ sư dạy rằng: Phải, phải! Sau này đạo pháp do ông mà đại thạnh hành đó. Ông hãy đi đi. Gắng đi cho mau về hướng Nam. Nhưng đừng nói ra sớm quá kẻo cái nạn của đạo pháp nổi lên.

Tôi lạy từ Tổ sư rồi, đi về phía Nam, hai tháng thì đến núi Đại-dũ. Còn Tổ sư trở về, đến mấy ngày không ra giảng đường, đồ chúng nghi ngờ, mới vào bạch hỏi Ngài đau yếu ra sao. Tổ sư trả lời: Ta không đau ốm gì, nhưng y pháp của ta đã đi về phía Nam rồi. Đồ chúng hỏi: Ai là người được Ngài truyền thọ cho, Ngài dạy: Huệ-Năng, con người ấy được đó! Bấy giờ đồ chúng mới hay sự đắc pháp của tôi, và những kẻ muốn chiếm đoạt y-bát đuổi theo vài trăm người, chạy trước những người này là một thầy họ Trần, tên Huệ-Minh, vốn là tứ phẩm tướng quân nên tánh hạnh hung hăng, quyết ý tầm nã tôi. Khi Huệ - Minh đuổi kịp, tôi liền để y bát xuống, ẩn mình trong đám cỏ rậm, Huệ-Minh đến, cố sức xách lên mà y bát vẫn không lay động, mới gọi to lên rằng: Hành giả, Hành giả, tôi đến đây là vì đạo pháp chứ không vì y bát. Tôi bèn bước ra ngồi trên phiến đá, Huệ - Minh đảnh lễ và bạch rằng: Xin Hành-giả thuyết pháp cho tôi. Tôi bảo: Nếu ông vì đạo pháp mà đến đây, thì hãy lắng lòng mình xuống, đừng móng lên một ý niệm gì khác, tôi sẽ nói cho. Qua một lát, tôi nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính trong lúc đó cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ-Minh vậy? Ngay dưới câu hỏi ấy, Huệ-Minh đại ngộ. Lại hỏi ngoài ra lại còn mật ý gì nữa không? Tôi bảo: Cái tôi nói ra cho ông thì không phải là một sự bí mật nữa, nếu ông tự phản chiếu thì mật ý chính ở nơi ông. Huệ Minh thưa rằng: Minh này tuy ở Hoàng-Mai mà thật chưa biết diện mục của mình, bây giờ được Ngài chỉ thị thật như kẻ uống nước, nóng hay lạnh tự mình biết lấy, nên Hành-giả chính là đức thầy của Huệ-Minh vậy. Tôi nói: Nếu ông được như vậy thì chính là cùng tôi tôn thờ Tổ-sư Hoàng Mai đó; ông hãy khéo tự hộ trì. Huệ-Minh lại hỏi tôi từ nay về sau ông nên đi về đâu, tôi bảo: “Phùng Viên tắc chỉ, ngộ Minh tắc cư”, Huệ-Minh liền lạy từ. Về đến chân núi, Huệ-Minh gọi tất cả những người đuổi theo lại, bảo rằng đã đến chỗ cao ghềnh kia rồi mà không thấy có một dấu vết gì, thôi hãy tìm qua một đường khác. Những người ấy cho là phải. Sau này Huệ- Minh  đổi tên mình là Đạo-Minh, ý muốn tránh chữ thứ nhất của Thầy.

Phần tôi, đi đến Tào-Khê lại bị kẻ ác tâm tìm nã nữa, nên lánh sang ở với nhóm người đi săn ở đất Tứ-Hội trong 15 năm. Trong thời gian ấy thỉnh thoảng tùy tiện thuyết pháp cho những người đi săn và được họ hay bảo tôi giữ lưới nên thấy con vật nào mắc vào thì thả hết. Ăn thì tôi kiếm rau bỏ vào một nồi mà nấu kẻo họ nghi, và nếu bị hỏi thì tôi nói: chỉ xin ăn rau bên thịt mà thôi.

Một ngày nọ tôi nghĩ đã đến lúc ra hoằng  dương đạo pháp, không nên lánh mình mãi ở đây, nên đi đến chùa Pháp-Tánh ở Quảng-Châu, nhằm lúc Ấn -Tôn pháp sư đang giảng kinh Niết-bàn. Bấy giờ nhân có 2 vị xuất gia thảo luận với nhau về sự lay động của cái phan;một người nói gió động, một người nói phan động, thảo luận không ngừng, tôi mới bước tới, nói không phải gió động, cũng không phải phan động mà do các Nhân-giả tâm động. Ai nghe cũng kinh ngạc. Ngài Ấn-Tôn liền mời tôi ngồi chỗ trên hết và cật vấn áo nghĩa. Thấy tôi nói năng giản dị, nghĩa lý xác đáng mà không cần văn tự, Ngài Ấn-Tôn nói: Hành giả nhất định không phải là kẻ tầm thường; từ lâu tôi nghe y pháp của Tổ-sư Hoàng-Mai đã đi qua phía Nam, có phải Hành giả là người được truyền thọ chăng? Tôi nói không dám. Ngài Ấn-Tôn liền làm lễ và bảo tôi đưa ra y bát đã được truyền thọ ra cho đại chúng chiêm bái. Ngài Ấn-Tôn lại hỏi: Khi Tổ-sư Hoàng Mai phú chúc cho Ngài thì chỉ thị những gì? Tôi đáp: Ngài không chỉ thị gì; Ngài nói kiến tánh mà không nói đến cái tên thuyền định và cái tên giải thoát. Ngài Ấn-Tôn hỏi tại sao không nói đến thuyền định và giải thoát? Tôi đáp: Vì đây là những pháp “hai” mà Phật-pháp là “không phải hai”. Ngài Ấn Tôn lại hỏi: Phật pháp không phải hai là thế nào? Tôi đáp: Như Phật-tánh được Phật thuyết minh trong kinh Niết-bàn mà Ngài đang giảng, là pháp không phải hai. Thí dụ khi ngài Cao-quý-đức-vương Bồ tát hỏi Phật: Những kẻ cực ác đoạn các thiện căn mà có đoạn được Phật-tánh không? Phật dạy: Thiện căn có hai, có thứ thường, có thứ vô thường, nhưng Phật-tánh không phải thường không phải vô thường, thế nên không thể đoạn được: đấy là cái nghĩa không phải hai. Lại như thiện và bất thiện là hai, mà Phật-tánh không phải thiện và bất thiện nên gọi không phải hai. Uẩn với giới cũng vậy, kẻ phàm phu thấy ra hai cả, còn trí giả thể nghiệm thì là bất nhị: Tánh bất nhị ấy là Phật-tánh.

Ngài Ấn-Tôn nghe xong, hoan hỷ chấp tay mà nói: Tôi giảng như ngói gạch, còn Nhân-giả nói thật vàng ròng. Thế rồi làm lễ thế phát cho tôi, nguyện thờ tôi làm thầy. Bây giờ, sau bao nhiêu gian khổ, tánh mạng như sợi tơ treo, tôi mới ở dưới cây Bồ- đề của chùa Pháp-Tánh khai thị “pháp môn Đông- Sơn”, tức đạo pháp mà Tổ-sư Hoàng-Mai đã truyền thọ.

 

 

 


 


2

NGÀY CUỐI CÙNG

 

Trước hết, xin ghi chú ở đây niên đại của Ngài Huệ-Năng, chiếu theo bản ngoại kỷ và tài liệu trong Pháp-bảo-đàn.

Ngài Huệ-Năng sanh giờ Tý, ngày 8 tháng 2 năm Mậu-tuất, năm thứ 12 của hoàng đế Trinh-quán đời Đường, tức năm 638 dương lịch. Cái tên Huệ- Năng là do 2 vị đại-đức-tăng tự nhiên đến nhà đặt cho Ngài khi mới sanh, và giải thích với thân phụ Ngài rằng Huệ là ban đạo pháp cho chúng sanh, Năng là có khả năng làm Phật-sự. Năm Ngài lên ba thì thân phụ mất.

Năm 24 tuổi thì nghe tụng Kinh mà tỉnh ngộ, đến yết Ngài Hoàng-Mai, được Ngài nhận là pháp khí nên truyền phú y pháp, nối Ngài làm vị tổ sư thứ 6 ở Trung - Hoa. Bấy giờ là Long-sóc nguyên niên, năm Tân-dậu, tức 661 dương lịch.

Rồi lánh nạn 15 năm, đến Phụng-nghi nguyên niên, ngày 8 tháng giêng, năm Bính-tý, tức 676 dương lịch, Ngài hội kiến với Ngài Ấn-Tôn. Sau khi khế ngộ tôn chỉ của Ngài, ngày rằm tháng ấy, Ngài Ấn-Tôn triệu tập cả 4 chúng mà thế độ cho Ngài. Qua ngày 8 tháng 2, Ngài Ấn-Tôn lại triệu tập các vị đại-đức-tăng mà thọ cụ túc giới cho Ngài. Trí-quang luật-sư ở Tây-kinh làm hòa thượng, Huệ-tịnh luật sư ở Tô-châu làm yết ma, Thông ứng luật sư ở Kinh châu làm giáo-thọ, Kỳ-đa-la luật sư ở Trung-Ấn thuyết giới, Mật-đa tam tạng pháp sư ở Tây-Ấn chứng giới, và giới đàn là do Ngài Cầu-na-bạt-đà-la tam tạng pháp sư, người dịch kinh Lăng -già, bộ kinh mà Đạt-Ma Tổ sư đã đem ra truyền tâm ấn cho Huệ-Khả Tổ sư, lập ra từ đời Tống, với cái bia có ghi “sau này sẽ có một vị nhục thân bồ-tát thọ giới ở đây”.

Tiếp theo, cùng năm tháng nói trên, sau khi thọ giới, Ngài Huệ-Năng khai vị “pháp môn Đông-Sơn” dưới cây Bồ-đề chùa Pháp-Tánh.Cây ấy do Ngài Trí-Dược tam tạng pháp sư, từ đời Lương, bằng đường hàng hải, đi từ Ấn-độ đem đến trồng cạnh giới đàn, ghi rằng: “170 năm sau, có một vị nhục thân bồ tát ở dưới gốc cây này khai diễn đạo vô thượng, giáo hóa vô số chúng sanh; người ấy thật là vị pháp chủ truyền Phật tâm ấn”. Tính từ năm Ngài Trí-Dược trồng tức Thiên-Giám nguyên niên nhà Lương, đến năm Ngài Huệ-Năng khai vị đạo pháp, tức Phụng- nghi nguyên niên nhà Đường, có 175 năm.

Mùa xuân năm sau, Ngài Huệ-Năng về núi Bảo-Lâm, Tào-Khê. Địa điểm này cũng do ngài Trí-Dược đã nói ở trên, nhân từ Nam-hải qua cửa sông từ Tào-Khê chảy ra, múc nước uống nghe mùi vị thơm ngọt, Ngài lấy làm lạ, bảo mọi người: Nguồn khe này tất có chỗ đất tốt có thể tạo lập Lan-nhã. Rồi đi ngược lên, đến núi Bảo-Lâm, Ngài dừng lại thấy núi sông bao bọc, cảnh trí kỳ vĩ thanh tú, bảo những người tùy tùng: núi này thật giống núi Bảo-Lâm ở Ấn-Độ. Nhân đó, Ngài lại bảo cư dân thôn Tào-Hầu rằng nên cất một ngôi chùa, 170  năm sau sẽ có đạo pháp vô  thượng được khai diễn ở đây, người đắc đạo nhiều như rừng, vậy nên đặt tên núi này là Bảo-Lâm. Bây giờ quan Thiều-châu mục là Hầu-Kính-Trung làm biểu tâu rõ với Hoàng-Đế nhà Lương, nên niên hiệu Thiên-Giám năm thứ 3 (504), Hoàng -Đế nhà Lương sắc tứ hiệu Bảo-Lâm trên một bức hoành, ngôi chùa liền thành một Phạn cung. Khi Ngài Huệ-Năng về, Bảo-Lâm thành một đạo tràng bao la, và cả núi chỗ nào Ngài đến thấy tốt thì dừng lại và thành ra một sở Lan-nhã, trước sau có 13 chỗ tất cả.

Đến ngày mồng 3 tháng 8 niên hiệu Tiên- Thiên năm thứ 2 của Hoàng-Đế nhà Đường, năm Quý-sửu, tức 713 dương -lịch, Ngài Huệ-Năng viên tịch ở chùa Quốc-Ân, Tân-châu. Như vậy là ngài có 76 tuổi: 24 tuổi đắc pháp, 39 tuổi thế phát, thuyết pháp lợi sanh 37 năm. Những ngày cuối cùng của Ngài cần phải ghi lại kỹ dưới đây, nhất là tư tưởng của Ngài qua bài kệ phú pháp và bài kệ tối hậu.

Ngài Huệ-Năng viên tịch ở chùa Quốc Ân, Tân-châu. Vậy ngôi chùa ấy như thế nào, nên biết qua một chút.

 

Tân-châu là trú quán của Ngài Huệ-Năng. Năm Thần-Long nguyên niên hoàng đế nhà Đường hạ chiếu như sau: “Trẫm thỉnh Ngài An-đại-sư và Ngài Tú-đại-sư cúng dường trong cung và mỗi khi vạn việc hơi rảnh thì Trẫm cứu xét giáo lý nhất thừa cùng hai Ngài. Hai Ngài thôi nhượng rằng: Nam-phương có Ngài Huệ-Năng là người mật thọ y pháp của Tổ-sư Hoằng-Nhẫn, truyền Phật tâm ấn, Hoàng thượng nên thỉnh Ngài mà hỏi. Vậy nên Trẫm sai nội thị Tiết-Giản đệ chiếu này đến cung thỉnh Ngài, xin Ngài từ bi dời gấp pháp giá về kinh đô”. Ngài Huệ- Năng bèn dâng biểu từ rằng bị bịnh, nguyện chung thân ở chốn lâm tuyền mà thôi. Tiết-Giản bạch rằng: Đệ tử trở về kinh đô, chúa thượng tất có cật vấn, vậy xin Tổ sư từ bi chỉ thị tâm yếu cho đệ tử, để đệ tử tâu lại với hoàng đế và truyền bá cùng những người học đạo ở kinh đô. Bạch Tổ-sư việc đó cũng không khác chi một ngọn đèn thắp lên trăm ngàn ngọn khác, làm cho tối được sáng, ánh sáng này chuyền cho ánh sáng khác một cách vô tận. Ngài dạy: Minh với vô minh, tức sáng và tối mà ông vừa nói, phàm phu thấy ra hai, còn trí giả thể nghiệm thì vốn là bất nhị, cái tánh bất nhị ấy tức là thực tánh, thực tánh ấy ở trong phiền não mà không loạn, ở trong thuyền định mà không trầm; nếu ông muốn biết tâm yếu, thì tất cả thiện ác đều không chấp trước và phân biệt, tự nhiên thể nhập tâm tánh thanh tịnh, bấy giờ tâm thể thường trạm tịch và diệu dụng như hằng sa vậy.

 

Tiết-Giản nghe những chỉ thị ấy, hoát nhiên đại ngộ, bèn đảnh lễ Ngài, về Kinh đô làm biểu thuật rõ lời Ngài dạy, nên sau đó, Hoàng đế nhà Đường lại hạ chiếu như sau:

 

Tổ sư lấy bịnh mà từ để được hành đạo, ấy là Ngài làm ruộng phước cho quốc dân đó. Tổ sư có khác gì đức Duy-Ma thác bịnh để hoằng dương đại thừa đâu. Những lời Tổ sư dạy về pháp bất nhị mà Tiết-Giản tâu lại, Trẫm thật tích thiện có thừa, túc phước có gieo, mới được gặp Tổ sư xuất thế và được ngộ thượng thừa như vậy. Trẫm mang đội ân đức của Tổ sư thật là vô cùng. Trẫm xin hiến cúng một ca sa và một bình bát quý, và sắc quan Thứ-sử Thiều-châu kiến thiết một sở tự viện nơi chỗ ở cũ của Ngài, sắc tứ tên là chùa Quốc Ân.

Mùa an cư năm Quý-sửu (713 dương lịch) chưa xong, ngày mồng một tháng 7, Ngài Huệ- Năng tập chúng lại bảo rằng: Đến tháng 8 này ta muốn từ biệt thế gian. Chúng nghe ai nấy đều khóc, chỉ Thần-Hội là bất động. Ngài bảo: “Ra chỉ có Thần -Hội, người nhỏ nhất, là được cái sự vui buồn bất động, còn các ông khóc như vậy là khóc cho ai đó? Nếu khóc cho tôi thì thế là không biết chỗ tôi đi; nhưng tôi biết rõ chỗ tôi đi, nếu không, tôi đã không báo trước cho các ông. Các ông phải biết pháp tánh vốn không sanh diệt, đến đi. Hãy nghe bài kệ của tôi sau đây”.

Bài kệ ấy, quan trọng nhất là những câu sau đây:

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

       

  Bấy giờ đồ chúng đảnh lễ, bạch rằng: Tổ sư phú y pháp cho ai? Ngài trả lời: Cứ theo ý của Đạt-Ma  Tổ sư thì ca sa không còn truyền nữa.

Ngài Huệ-Năng lại dạy: Muốn thành tựu Nhất-thế-trí thì phải tu tập nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Nhất tướng tam muội là không chấp trước mọi sự, nhất hạnh tam muội là giữ trực tâm thuần nhất. Đủ 2 thứ tam muội này thì tâm tánh sẽ như đại địa, hàm dưỡng hết thảy. Tiếp theo, Ngài nói một bài kệ mà đã được coi là bài kệ phú pháp của đời Ngài. Bài kệ ấy như sau:

       

       

       

                  

Chính Ngài đã gián tiếp cắt nghĩa bài kệ ấy bằng những lời này: Tôi thuyết pháp không khác mưa đúng lúc xuống khắp cả đại địa, làm cho chủng tử Phật tánh của các người đều phát sanh

 Và quyết định được vô thượng Bồ-đề. Rồi Ngài lại nói tiếp: “Vậy nên pháp tánh bất nhị, tâm cảnh thanh tịnh, các ngươi cẩn thận, đừng quán sự yên tĩnh và làm trống không tâm mình; tâm tánh vốn thanh tịnh, không có chi đáng giữ, cũng không có chi cần bỏ. Các ngươi hãy nỗ lực và hãy tùy duyên mà đi hoằng dương giáo pháp và giáo hóa quần sanh.”

Chính vì tính chất trên đây, chúng ta được thấy bài kệ phú pháp của Ngài Huệ - Năng đầy tính chất hướng hạ mà chúng ta sẽ còn thấy trong phần tư tưởng của Ngài.

Ngày mồng 8 tháng 7, Ngài Huệ-Năng bảo đồ chúng: Tôi muốn về Tân-châu. Đồ chúng xin Ngài ở lại, Ngài bảo: Hình hài tôi đây về đã có chỗ. Đồ chúng xin Ngài trở về sớm, Ngài bảo: Lá rụng về cội, trông ngóng sự đi lại làm gì. Đồ chúng lại hỏi: Chánh pháp nhãn tạng phú truyền cho ai? Ngài bảo: “Hữu đạo thì chứng được, vô tâm thì thông suốt”. Lại hỏi: Sau này có tai nạn gì không? Ngài bảo: Sau khi tôi mất, có một người muốn ăn cắp đầu của tôi.

Qua ngày mồng 3 tháng 8, tại chùa Quốc-Ân, sau khi dự trai tăng xong, Ngài Huệ - Năng bảo đồ chúng: Các ông ngồi lại đây, để tôi từ biệt. Pháp-hải, người chép lại tất cả những lời thuyết pháp của Ngài thành cuốn kinh Pháp-bảo-đàn, bạch rằng: Tổ sư lưu giáo pháp gì lại để cho những người mê muội được thấy Phật-tánh? Ngài Huệ-Năng dạy rằng: “Nếu biết rõ chúng sanh tức là thấy được Phật-tánh”.

 

Đó là lời dạy thật quan trọng và bộc lộ được tư tưởng đặc thù của Ngài Huệ-Năng. Ta hãy nghe cho hết những lời của Ngài tự giải thích về câu nói ấy: “Những người mê muội nếu biết rõ chúng sanh tức là thấy được Phật-tánh; nếu không biết chúng sanh thì vạn kiếp tìm Phật cũng không gặp. Nay tôi dạy các người “hễ biết được chúng sanh của tự tâm thì thấy được Phật-tánh của tự tâm: muốn tìm thấy Phật phải biết rõ chúng sanh”. Chúng sanh mê Phật-tánh, không phải Phật-tánh làm mê chúng sanh. Tự tánh
mà ngộ được thì chúng sanh là Phật, tự tánh nếu mê mờ thì Phật là chúng sanh. Tự tánh bình đẳng thì chúng sanh là Phật, tự tánh hiểm tà thì Phật là chúng sanh. Các người nếu tâm hiểm hóc thì Phật khuất trong chúng sanh, mà nhất niệm chánh trực thì chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật-tánh, Phật-tánh ấy mới làm một đức Phật; nếu tâm tự nó không có Phật-tánh thì tìm cách nào làm một đức Phật được? Nên tự tâm là Phật, điều đó các người đứng hồ nghi. Ngoài tâm không có một pháp gì kiến lập được. Chính tự tâm sanh vạn pháp, nên trong kinh có dạy: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt”. Tôi để lại cho các người bài kệ “ Tự tánh chân Phật”, về sau ai thể nhận được ý tứ của bài kệ thì người ấy tự thấy được tâm tánh, tự thành một đức Phật”. Bài kệ ấy xin trích ra đây và sẽ được trích dịch lại trong phần tư tưởng của Ngài.

 

真 如 自 性 是 真 佛

邪 見 三 毒 是 鬼 王

邪 迷 之 時 鬼 在 舍

正 見 之 時 佛 在 堂

性 中 邪 見 三 毒 生

即 是 鬼 王 來 往 舍

正 見 自 除 三 毒 心

鬼 變 成 佛 真 無 假

法 身 報 身 及 化 身

三 身 本 來 是 一 身

若 向 性 中 能 自 見

即 是 成 佛 菩 提 因

本 從 化 身 生 淨 性

淨 性 常 在 化 身 中

性 使 化 身 行 正 道

當 來 圓 滿 真 無 窮

婬 性 本 是 淨 性 因

除 婬 即 是 淨 性 身

性 中 各 自 離 五 欲

見 性 剎 那 即 是 真

今 生 若 遇 頓 教 門

忽 悟 自 性 見 世 尊

若 欲 修 行 覓 作 佛

不 知 何 處 擬 求 真

若 能 心 中 自 見 真

有 真 即 是 成 佛 因

不 見 自 性 外覓 佛

起 心 總 是 大 癡 人

頓 教 法 門 今 已 留

求 度 世 人 須 自 修

報 汝 當 來 學 道 者

        不 作 此 見 大 悠 悠  

Nói bài kệ ấy xong, Ngài Huệ-Năng lại dặn đồ chúng: Sau khi tôi mất, các người đừng làm theo thế tình mà khóc lóc bi ai, nhận sự phúng điếu, mình mặc đồ tang. Làm như vậy không phải là đồ đệ của tôi, cũng không đúng chánh pháp. Các người chỉ phải biết tự tâm, thấy tự tánh, là được nhất. E rằng tâm lý các người  lại bị mê loạn mà không thể hội ý tôi, nên tôi lại phú chúc bài kệ sau đây để làm cho các người được kiến tánh. Tôi mất rồi, các người hãy y bài kệ ấy mà tu tập y như tôi còn sống, nếu trái đi thì tôi có còn cũng vô ích. Bài kệ ấy như sau:

  

Bài kệ này chứng tỏ sở hành sở chứng của Ngài Huệ-Năng thật đã quá cao, khi ta giảng nghĩa theo hành tướng của các Bồ-tát-địa. “Ngột ngột bất tu thiện” là trơ ra mà không đắm trước các điều thiện;” Đằng đằng bất tạo ác” là lăng xăng mà không tạo tác các điều ác. Trong khi đó Bồ-tát-địa từ hữu công dụng hạnh sắp lui thì trái lại. Nhưng Bồ-tát-địa đến vô công dụng hạnh thì thuận tánh khởi dụng nên diệu dụng vô cùng vô tận mà không chấp thiện và cố nhiên cũng không tạo ác, cho nên “Tịch tịch đoạn kiến văn”, tức tịnh trừ các phân biệt và “Đảng đảng tâm vô trước”, tức căn bản vô phân biệt trí đã hiện tiền.

Giải nghĩa như vậy tức là kết luận Ngài Huệ-Năng đã qua đệ thất địa mà bước vào nhập tâm của đệ bát địa. Đúng không? Điều ấy, theo khế kinh dạy, chỉ có Phật mới rõ được, chứ Bồ-tát cũng chưa tự biết, nhưng văn tự bài kệ thì không thể cắt nghĩa khác đi được nữa.

Tuy nhiên, thiển ý người viết về Ngài Huệ-Năng thật không phải cho bài kệ ấy là tổng kết đời Ngài, mặc dầu sự thật là như vậy. Điều đáng đề cao nhất, và hợp với thái độ của Phật qua kinh Pháp-hoa nhất, chính ở chỗ trong những ngày cuối cùng Ngài Huệ-Năng vẫn cực lực đề cao Phật-tánh, hầu như cái chữ kiến tánh chỉ có nghĩa là tự thấy Phật tánh. “Tự tâm là Phật, điều đó các người đừng hồ nghi. Vì “nếu biết rõ chúng sanh tức là thấy được Phật-tánh”, đọc những lời ấy ai mà cầm lòng cho khỏi liên tưởng tới cái thí dụ “cùng tử” rất thống thiết và câu chuyện Ngài Thường-bất-khinh rất cảm động trong kinh Pháp-hoa? Nên “đề cao Phật-tánh” thật là điều đáng được coi là đã bao trùm cả đời Ngài Huệ-Năng để ta có thể nói Ngài Huệ-Năng, con người quê mùa đến nỗi tiếng nói cũng không đúng ấy, đã làm nổi bật lên nơi mình cái thuyết Phật tánh của Phật mà không thấy, không nghi ngờ là quá đáng.

Sau khi nói bài kệ trên, Ngài đoan tọa đến canh ba, bỗng bảo đồ chúng: Tôi đi đây, Rồi mất. Đồ chúng rước về Tào-Khê nhập tháp. Sau đó 10 năm, đêm mồng 3 tháng 8 có kẻ ăn tiền 20 ngàn của một vị Sư ở Tân-La, lén đến trộm đầu Ngài, việc không thành mà bị quan sở tại bắt. Nhưng kẻ ấy được tha, sau khi quan sở tại được nghe Linh-Thao, thượng túc của Ngài Huệ-Năng, bảo: “Pháp luật quốc gia thì đáng tru lục thật đó, nhưng theo đức từ bi của Phật thì thân thù bình đẳng, huống chi ý họ đến trộm là muốn đem về thờ phụng cúng dường, thì tội ấy đáng khoan dung”. Mọi việc xảy ra đều đúng như lời của Ngài Huệ-Năng trước khi mất.


 


3

CƠ HÓA ĐỘ

 

Thuyền tôn có nhiều đặc biệt, trong số đó có một điều mà những kẻ nếu chưa được “tôn thông thuyết thông” rất không nên bắt chước, ấy là tùy cơ tiếp vật thì ứng đáp rất bặt thiệp và tự do, làm cho những người có cơ hóa độ đều được minh tâm kiến tánh. Đó là điều mà Ngài Huệ-Năng đã nói: “Người kiến tánh thì lập cũng được, phá cũng được, khứ lai tự tại, không bị ngăn lấp, không bị dính mắc, “ứng dụng tùy tác, ứng ngữ tùy đáp” - ứng theo trường hợp mà hoạt dụng, tùy theo ngữ khí mà đối đáp. Hiện ra vô số diệu dụng mà không bao giờ rời tự tánh”. Phương thức hóa độ như vậy ta sẽ thấy qua mấy vị được Ngài Huệ-Năng ứng tiếp mà kinh Pháp-bảo-đàn có ghi.

Trước hết, đây là chung cho hết thảy mọi người và nhất là dạy về 4 hạnh căn bản: thọ giới, sám hối, phát nguyện và quy y. Một hôm tất cả nhân sĩ và thứ dân ở Quảng-châu và Thiều-châu đều vân tập, Ngài Huệ-Năng bèn lên pháp tọa dạy rằng: Các vị Thiện tri thức! Việc chính của chúng ta là phải từ tự tánh mà khởi dụng, trong tất cả thời niệm niệm tự tịnh tâm mình, tự tu tự hành để thấy đức Phật của tự tâm. Phải tự hóa độ theo tự tánh mà phải tự tu theo giới pháp của tự tánh mới được.

Thọ giới thì Ngài Huệ-Năng truyền 5 phần pháp thân: Giới hương là tự tâm không có tội lỗi; Định-hương là tự tâm bất loạn; Huệ-hương là tự tâm vô ngại, trí tuệ tự quán chiếu tự tánh, không tạo các điều ác, tuy làm các điều thiện mà không chấp trước, kính trên thương dưới, cứu giúp những kẻ bần cùng cô quả; Giải-thoát-hương là tự tánh vô ngại; Tri-kiến-hương là tự tánh không trầm không thủ tịch nên rộng học nghe nhiều, chứng tự tâm, suốt Phật lý, hòa quang tiếp vật, không bỉ không thử, cho đến ngày thành bồ đề tự tánh cũng không chuyển dịch.

- Thọ giới xong, Ngài bảo mọi người quỳ xuống, đồng thanh sám hối như sau: chúng con nguyện niệm niệm không để ngu mê, ác nghiệp và phiền não xâm nhập tâm trí.

Ngài Huệ-Năng lại dạy: Các vị Thiện tri thức, sám hối rồi thì phải phát nguyện theo 4 hoằng thệ của Phật, tức là vô biên chúng sanh của tự tâm thì thề nguyện hóa độ, vô tận phiền não của tự tâm thì thề nguyện đoạn trừ, vô lượng pháp môn của tự tâm thì thề nguyện tu học, vô thượng Phật đạo của tự tâm thì thề nguyện viên thành.

Còn quy y là quy y tự tánh Tam-Bảo. «Quy y tự tánh Tam-Bảo thì Phật là tính cách giác, Pháp là tính cách chánh, Tăng là tính cách tịnh. Tự tâm quy y giác thì ngu mê không sanh, tự tâm quy y chánh thì niệm niệm chánh kiến, tự tâm quy y tịnh thì tự tánh ly nhiễm. Các vị Thiện tri thức, tự quy y là trong thì điều phục tâm tánh, ngoài thì kính phụng mọi người ».

Bây giờ đến các cơ hóa độ riêng biệt.

Một ni cô tên Vô-tận-tạng thường tụng kinh Niết-bàn. Ngài Huệ-Năng nghe liền biết diệu nghĩa của kinh ấy. Vô-tận-tạng cầm kinh hỏi chữ, Ngài bảo: Tôi không biết chữ. Vô-tận-tạng nói: chữ không biết thì làm sao biết nghĩa lý ? Ngài nói : «Chư Phật diệu lý phi quan văn tự», diệu lý của chư Phật có liên hệ gì đến văn tự ?

Vô-tận-tạng hết sức kinh dị.

Pháp-Hải, người Thiều-châu, tham yết Ngài, hỏi: tức tâm tức Phật, xin Ngài chỉ thị cho con nghĩa đó. Ngài bảo: Niệm trước bất sanh là tâm, niệm sau bất diệt là Phật; thành tất cả là tâm, ly hết thảy là Phật. Hãy nghe bài kệ của tôi đây:

Tức tâm là huệ,

Tức Phật là định,

Định huệ đẳng trì,

Ý trung thanh tịnh,

Ngộ pháp môn này,

Do người tập tánh,

Dụng vốn vô sanh,

Song tu là chánh,

Pháp-Đạt, người Hồng-châu, 7 tuổi xuất gia, thường tụng Pháp-hoa, đến làm lễ Ngài đầu không sát đất. Ngài bảo: Xem cách lạy của ông, biết ông trong lòng có một việc; ông thường làm gì? Pháp-Đạt thưa rằng tụng kinh Pháp-hoa đã ba ngàn lần. Ngài nói: Ngươi tự phụ việc ấy mà không biết lỗi của mình, hãy nghe bài kệ của tôi đây:

Làm lễ để chiết phục kiêu ngạo,

Tại sao đầu không đến dưới đất ?

Chấp ngã thì tội nghiệp liền sanh,

Quên công,  phước đức mới hơn hết.

Ngài lại hỏi: Ông tên gì ? Pháp-Đạt nói tên mình, Ngài bảo: Ông tên Pháp-Đạt mà như vậy là chưa đạt được pháp gì hết. Hãy nghe bài kệ tôi đây:

            Ông tên Pháp-Đạt

            Mà chỉ siêng tụng thôi.

            Không biết rằng tụng không là chỉ  theo tiếng,

            Chứ minh tâm mới gọi là Bồ-tát

            Lòng ông có chỗ ỷ thị,

Nhưng tôi nói để ông hay,

Hễ tin Phật, ly ngôn

Thì hoa  sen phát ra từ trong miệng.

Pháp-Đạt liền sám hối mà bạch rằng: Từ nay về sau con xin khiêm cung với tất cả mọi người. Con tụng Pháp-hoa mà tâm thường có chỗ nghi ngờ, xin Ngài tóm tắt nghĩa lý kinh ấy cho con. Ngài bảo Pháp-Đạt tụng lên cho Ngài nghe một biến kẻo Ngài không biết chữ. Khi Pháp-Đạt to tiếng tụng đến phẩm “thí dụ” thì Ngài bảo thôi và nói: Thì ra kinh ấy lấy nhân duyên xuất thế làm tôn chỉ. Nhân duyên ấy là gì? Nguyên văn Kinh ấy dạy: Chư Phật Thế-Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện thế gian, ấy là khai thị Phật tri kiến” cho chúng sanh ngộ nhập. Ông phải cẩn thận, đừng hiểu lầm ý Kinh mà thấy nói như vậy nghĩ rằng Phật tri kiến là tri kiến của Phật, chứ mình không có gì. Hiểu như vậy là phỉ báng Kinh, cũng phỉ báng cả Phật. Phải hiểu Phật  tri kiến” đó là của tự tâm chứ không phải chỉ Phật mới có. Vậy nên ngu mê tạo tội là tự mở tri kiến chúng sanh ra đó, mà chánh tâm quán chiếu tự tánh, bỏ ác làm lành là tự mở tri kiến Chư Phật vậy. Phải niệm  niệm mở tri kiến chư Phật mà đừng khai tri kiến chúng sanh, chứ nếu chỉ tự thị  sự tụng niệm thì có khác gì con trâu chỉ tiếc giữ cái đuôi của nó. Pháp-Đạt hỏi: Nếu vậy thì chỉ hiểu nghĩa mà không cần tụng kinh sao? Ngài dạy: Kinh có lỗi gì mà tôi bảo ông đừng tụng. Hãy nghe bài kệ của tôi đây:”... Tụng kinh lâu ngày mà không rõ, ấy là làm kẻ thù nghịch của nghĩa lý đó... “Pháp-Đạt đại ngộ, bất giác rơi lụy và trình Ngài bài kệ kết thúc bằng 2 câu:

           

                    

Ngài Huệ-Năng khen rằng từ nay về sau ông mới đáng gọi là ông thầy tụng Kinh. Và từ đó về sau Pháp-Đạt cũng không bao giờ dừng nghỉ sự tụng niệm.

Trí-Thông, người Thọ- châu đọc mãi kinh Lăng-già mà không thể lãnh hội được cái nghĩa 3 thân 4 trí, đến đảnh lễ cầu Ngài Huệ-Năng chỉ thị. Ngài dạy: Pháp thân là tánh của ông báo thân là trí của ông, hóa thân là dụng của ông, hãy nghe bài kệ sau đây:

Tự tánh đủ cả 3 thân

Phát minh ra thành 4 trí,

Không ly kiến văn cảnh giới,

Mà siêu nhiên đăng Phật địa.

Trí-Thông hỏi thêm nghĩa 4 trí, Ngài dạy đúng cái lý “chỉ chuyển tên mà không phải chuyển thể tánh” nên kết thúc bằng bài tụng như sau:

Bốn trí là kết quả của sự chuyển đổi 8 thức.

Nhưng chỉ là danh ngôn mà không phải thật tánh,

Nên nếu nơi sự chuyển đổi không lưu lại một cái gì,

Thì diệu dụng phát động vô cùng mà thật là vĩnh viễn an trú trong cảnh thuyền định của Phật.

 

Trí-Thông đ­ốn ngộ và trình một bài kệ với 2 câu kết thúc:

                               

                               

Trí-Thường người Tín-châu, đồng niên xuất-gia, quyết chí cầu kiến tánh cho được, một ngày nọ đến bái yết Ngài Huệ-Năng, Ngài hỏi: Ông ở đâu đến, muốn cầu việc gì? Trí-Thường bạch: Kẻ học đạo nầy trước đây đã y chỉ với Đại-Thông Hòa-Thượng, được Ngài chỉ thị cho cái nghĩa kiến tánh rồi, nhưng hồ nghi chưa hết, nên từ xa đến đây đảnh lễ Ngài, phục vọng từ bi chỉ giáo, Ngài Huệ-Năng hỏi: Ngài Đại-Thông đã dạy ông như thế nào? Trí Thường thưa: Con hỏi thế nào là bản tánh của con, Ngài hỏi rằng thấy hư không hay không, con trả lời có, Ngài hỏi hư không có hình tướng không, con trả lời không, Ngài dạy: Bản tánh của ông cũng như hư không, không có một vật gì có thể thấy được, như vậy là chánh kiến, không có một vật gì có thể biết được, như vậy là chân tri; không có hình tướng mà chỉ thấy bản nguyên thanh tịnh, giác thể viên minh, tức gọi là kiến tánh thành Phật. Bạch Ngài, kẻ cầu học đạo này nghe chỉ thị như vậy mà chưa được thấu đạt, nên ngưỡng mong Ngài từ bi dạy bảo. Ngài Huệ-Năng bảo: Lời dạy trên chỉ vì còn tri kiến nên ngươi không ngộ được; hãy nghe bài kệ tôi đây:

Không thấy một pháp thì còn sự thấy không,

Nên hệt như mây che mất mặt trời;

Không biết một pháp thì còn cái biết không,

Như vậy có khác gì hư không mà nổi
sấm chớp?

Thấy và biết như vậy khi không mà  
nổi lên,

Thì bị huyễn giác mà không biết được phương tiện;

Nếu ngay nơi một niệm mà ông biết được là trái,

Thì ánh sáng linh thiêng của ông vĩnh viễn hiện ra.

Trí-Thường nghe xong, hoát nhiên đại ngộ, than rằng ”Tự tánh vốn là cái thể giác chiếu, vậy mà ta đã chạy ra sự chiếu soi để bị trôi nổi một cách oan uổng”.

 性 覺 源 體

                    隨 照 枉 遷 流         

Một hôm Trí-Thường hỏi Ngài về cái nghĩa 3 thừa và tối thượng thừa mà Phật đã dạy, Ngài bảo: “Hãy quán tự tâm, đừng vụ ngoại cầu; thừa nghĩa là hành, không phải nói mà là tu. Đừng hỏi tôi, hãy trong tất cả thời, tự tánh tự như”. Trí-Thường đảnh lễ và hầu hạ suốt đời Ngài.

Chí-Đạo người Quảng-châu, đến thưa Ngài Huệ-Năng: Kẻ học đạo nầy từ ngày xuất gia đến giờ tụng Kinh Niết-Bàn đã 10 năm mà chưa rõ đại ý, nguyện xin Ngài từ bi chỉ dạy cho con. Ngài hỏi: Ông chưa rõ chỗ nào? Chí-Đạo thưa: Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”, con có chỗ sở nghi về bài tụng ấy. Ngài hỏi nghi thế nào, Chí-Đạo trình bày thì thấy ông quan niệm tịch diệt là đoạn diệt và lạc là lạc thọ, một cảm giác trái với khổ thọ và tính chất vốn là hoại khổ và hành khổ, nên Ngài dạy: “Ông chấp có thân mới có thọ dụng, và thọ dụng lạc thọ như ông nói, thì đấy là tỏ ra ông còn luyến tiếc sanh tử và đắm say thế lạc. Nhưng ông phải xét, Phật vì người mê mờ nhận huyễn thân làm tự thể, huyễn tượng làm ngoại cảnh, rồi thích sống sợ chết, niệm niệm giao động, luân hồi một cách oan uổng, bản tánh là niết bàn thường lạc mà lại thành ra khổ tướng, vì cái khổ ấy mà suốt ngày đuổi tìm thế lạc, Phật vì những người mê mờ như vậy mà chỉ thị tánh tịnh là niết bàn, sát na không sanh, sát na không diệt, lại càng không có sự sanh diệt có thể diệt được, ấy đó: tịch diệt hiện tiền; chính lúc hiện tiền cũng không có cái giới hạn của sự hiện tiền ấy, mới là thường lạc, cái lạc như vậy không có sự hưởng thọ, cũng không có người thưởng thọ, vậy nên nếu nói niết bàn làm cho các pháp vĩnh viễn không sanh ấy là phỉ báng Phật-pháp. Hãy nghe bài kệ của tôi đây:

 

Vô thượng đại niết bàn

Viên minh thường tịch chiếu,

Mà người phàm bảo chết,

Ngoại đạo cho là mất,

Còn các vị tiểu thừa

Lại gọi là vô tác,

Tổng kết sự chấp trước

Thành sáu mươi hai thứ,

Nhưng chỉ là vọng lập

Chứ đâu phải thật nghĩa ;

Duy những người quá lượng

Thông đạt, không thủ xả.

Do đó biết năm uẩn.

Và bản ngã trong đó,

Cùng cảnh sắc ở ngoài,

Tất cả chỉ giả danh,

Bình đẳng, như huyễn mộng

Nên không thấy phàm thánh,

Cũng không chấp niết  bàn,

Siêu việt trên tất cả,

Diệu dụng thường vô cùng,

Mà không chấp dụng ấy,

Phân biệt khắp tất cả,

Mà không chấp phân biệt.

Lửa cháy thấu đáy bể,

Gió bạt núi va nhau,

Mà vẫn thường tịch diệt,

Ấy đó: tướng Niết bàn!

Tôi nói là nói gượng,

Để ông bỏ tà kiến,

Chứ đừng hiểu theo lời,

May ra biết chút ít!

Chí-Đạo nghe bài kệ xong, tâm trí đại ngộ nên vui mừng đãnh lễ Ngài mà cáo thối.

Hành-Tư thuyền sư người Cát-châu, nghe đạo tràng Tào-Khê đông nhiều nên đến tham lễ Ngài Huệ-Năng và hỏi rằng: Làm như thế nào mới không rơi vào giai cấp? Ngài hỏi: Ông đã làm gì? Ngài Hành-Tư thưa: Đệ nhất nghĩa đế cũng không làm. Ngài nói: Vậy rơi vào giai cấp gì? Ngài Hành-Tư thưa Đệ Nhất nghĩa đế còn không làm, thì có giai cấp gì! Ngài Huệ-Năng đặc biệt nhận Ngài Hành -Tư thật là pháp khí, nên bảo làm Thủ-chúng. Một hôm Ngài lại bảo Ngài Hành-Tư: Ông nên đi hóa độ một nơi, làm cho Phật chủng không đoạn tuyệt. Ngài Hành-Tư liền về Cát-châu, ở núi Thanh-nguyên, hoằng hóa rất thạnh.

Hoài-Nhượng thuyền sư người Kim-châu ban đầu yết kiến An-quốc-sư, Ngài này bảo đến tham cứu Tào-Khê. Ngài Hoài-Nhượng đến, lễ bái rồi, Ngài Huệ-Năng hỏi: Ông ở đâu đến? Ngài Hoài-Nhượng thưa: Từ Ngài An-quốc-sư. Ngài Huệ-Năng hỏi: Vật gì? Tại sao? Ngài Hoài-Nhượng trả lời: Nói một vật tức không trúng. Ngài Huệ-Năng hỏi: Thế có thể tu chứng không? Ngài Hoài-Nhượng thưa: Tu chứng không phải không, nhưng ô-nhiễm không phải thật. Ngài Huệ-Năng tán dương rằng: “Nội cái điều không ô-nhiễm đó đã được Chư Phật hộ niệm. Ông như vậy tôi cũng như vậy”. Ngài Hoài-Nhượng bèn hầu hạ chung quanh Ngài Huệ-Năng 15 năm, ngày càng thâm nhập. Sau Ngài qua núi Nam-nhạc đại hoằng Thuyền-tôn.

Huyền-Giác thuyền sư biệt hiệu Vĩnh-Gia, người Ôn-châu, học tập kinh luận từ nhỏ, rất tinh pháp môn chỉ quán của tôn Thiên-thai, nhân xem Kinh Duy-Ma mà phát minh tâm-địa. Ngẫu nhiên gặp môn đồ của Ngài Huệ-Năng là Huyền-Sách, trong câu chuyện đàm đạo thấy Ngài xuất ngôn ám hợp, nên Huyền-Sách hỏi: Nhân giả đắc pháp với ai? Ngài Huyền Giác trả lời: Tôi học các kinh luận đại thừa đều có thầy cả, sau chính nơi kinh Duy-Ma tôi ngộ tâm tôn của Phật, nhưng chưa có ai để chứng minh; xin Nhân-giả chứng cho. Huyền-Sách nói: Lời tôi nhẹ lắm; ở Tào-Khê có tổ-sư thứ sáu là Ngài Huệ-Năng, nếu có thể xin mời Ngài cùng đi với tôi đến đó. Ngài Huyền-Giác nghe lời, và khi đi đến thì đi xung quanh Ngài Huệ-Năng 3 vòng rồi chống tích

trượng mà đứng. Ngài Huệ-Năng nói: Phàm một vị Sa-môn thì phải đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh; Đại-đức từ đâu đến đây mà kiêu ngạo như vậy? Ngài Huyền-Giác nói: Sanh tử đại sự, vô thường mau chóng. Ngài Huệ-Năng nói: Thế sao không thể chứng “không sanh”, liễu ngộ “không chóng”? Ngài Huyền Giác thưa rằng: Thể tức không sanh, liễu vốn không chóng! Ngài Huệ-Năng nói: Đúng như vậy, như vậy! Bấy giờ Ngài Huyền-Giác mới trang nghiêm làm lễ và xin cáo từ. Ngài Huệ-Năng bảo: Sao trở về mau quá vậy? Ngài Huyền-Giác thưa: Vốn tự không động làm gì có sự mau chóng! Ngài Huệ-Năng hỏi: Ai biết sự không động ấy? Ngài Huyền-Giác thưa: Ấy là Nhân-giả tự sanh phân biệt. Ngài Huệ-Năng tán dương rằng: Ông rất được cái ý “vô sanh”. Ngài Huyền-Giác thưa: Vô sanh mà có ý sao? Ngài Huệ-Năng nói: Không ý thì ai phân biệt? Ngài Huyền-Giác thưa: Chính sự phân biệt cũng không phải ý. Ngài Huệ-Năng nói: Lành thay, xin hãy lưu lại một đêm. Nhân đó bấy giờ có cái tiếng “một đêm giác ngộ”. Sau Ngài Huyền-Giác làm bài ca “chứng đạo” thạnh hành thế gian.

Trí-Hoàng thuyền giả khi y chỉ với Tổ sư thứ năm tự gọi mình đã được chánh-thọ rồi bỏ đi ở riêng, lập am, ngồi lâu, 20 năm như vậy. Đệ tử Ngài Huệ-Năng là Huyền-Sách du phương hóa độ, một hôm đến Hà-Sóc, nghe đại danh của Trí-Hoàng bèn đến am mà hỏi rằng: Ông làm gì? Trí-Hoàng nói: Nhập định. Huyền-Sách bảo:

Ông nhập định là hữu tâm mà nhập hay vô tâm mà nhập? Vô tâm thì thảo mộc lẽ ra cũng đáng được gọi là nhập định, còn hữu tâm thì hết thảy mọi loài cũng đáng ra được định. Trí-Hoàng nói: Khi tôi nhập định thì không thấy hữu hay vô tâm. Huyền-Sách nói: Đã không thấy hữu tâm hay vô tâm thì tức là thường định, sao còn có xuất và nhập định? Nếu có xuất có nhập thì chưa phải là thuyền định cứu cánh. Trí-Hoàng hỏi: Thầy của Nhân-giả là ai? Huyền-Sách đáp: Ngài Tổ sư thứ sáu, ở Tào-Khê. Trí Hoàng hỏi Ngài Tào-Khê dạy thuyền định ra sao? Huyền-Sách thưa rằng: Diệu trạm viên tịch, thể dụng như như 5 ấm vốn không, 6 trần chẳng thật, không xuất không nhập, không định không loạn, thể tánh của Thuyền là không trú ở nên không trú ở nơi sự tĩnh lặng của Thuyền, thể tánh của Thuyền là không phát sanh nên không phát sanh ý tưởng về Thuyền; Tâm như hư không mà cũng không có cái giới hạn của hư không. Trí-Hoàng đại ngộ, bèn cùng đến tham bái Ngài Huệ-Năng và trở lại Hà-bắc khai hóa tứ chúng.

Thần-Hội đồng tử, người mà Ngài Huệ-Năng đã tán dương là như như bất động, khi 13 tuổi, mới đến yết kiến, Ngài hỏi: Thiện-tri-thức từ xa đến đây là rất khó nhọc, vậy mà đã thấy được cái gốc của mình chưa? Hễ có gốc thì biết được ông chủ, hãy nói ra nghe coi. Thần-Hội thưa: Vô trú là gốc, thấy là chủ. Ngài nói: Ông Sa-di này chỉ được cái nói bỏ cả thứ lớp. Thần-Hội hỏi: Ngài tọa thuyền vậy thấy hay không thấy? Ngài bèn dùng thuyền trượng đánh Thần-Hội 3 cái, hỏi rằng: Con đau hay không? Thần-Hội thưa: Cũng đau, cũng không đau, Ngài nói: Ta cũng thấy cũng không thấy. Thần-Hội hỏi, Ngài bảo: Ta thấy là thường thấy lỗi lầm của mình, còn không thấy là không tìm tòi tốt xấu của kẻ khác, nên ta cũng thấy, cũng không thấy. Còn sự cũng đau, cũng không đau của con thì thế nào? Không đau thì con khác gì cây đá, mà đau thì con khác gì phàm phu, lòng tất hờn giận. Con không biết thấy với không thấy là 2 ý niệm đối lập mà có, đau với không đau là do sự sinh diệt mà ra. Tự tánh của con thì con không thấy, con lại trào lộng người khác. Thần-Hội hối hận, đảnh lễ sám hối. Ngài Huệ-Năng lại dạy: Nếu con mê mờ thì phải học hỏi thiện tri thức để tìm đường tu chứng; nếu con tỏ ngộ thì minh kiến tự tánh, như pháp tu hành. Con tự mê mờ không thấy tự tâm, lại đi hỏi ta thấy với không thấy, Thần-Hội lại lạy 100 lạy, cầu sám hối lầm lỗi, rồi sau đó hầu hạ sát Ngài, không bao giờ rời ra. Một ngày nọ, Ngài Huệ-Năng bảo đồ chúng: Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không chữ, không trái không mặt, các người ai biết chăng? Thần-Hội liền bước ra bạch rằng: Ấy là nguồn gốc của Chư Phật, là giác tánh của con đây! Ngài Huệ-Năng nói: Đã không có tên chữ, sao con còn bảo là nguồn gốc, giác tánh? Không khéo con sẽ thành tín đồ của những kẻ tri giải đó. Sau này, khi Ngài Huệ-Năng mất, Thần-Hội vào Lạc-dương đại hoằng đốn giáo của Tào-Khê. Tác phẩm “Hiển tôn ký” của Người thạnh hành cả thế gian.

Có một vị Sư nào đó, hỏi Ngài Huệ-Năng: Ý chỉ của Ngài Hoàng-Mai ai được? Ngài bảo: Ai lãnh hội Phật  pháp thì người ấy được. Vị Sư ấy hỏi: Ngài được không? Ngài trả lời: Tôi không lãnh hội được Phật-pháp!

Phương-Biện người đất Thục, đến yết kiến Ngài Huệ-Năng, Ngài hỏi: Thượng-nhân tinh nghề gì? Phương-Biện bạch rằng: Tinh nghề đắp tượng, Ngài chánh sắc bảo rằng: Thượng-nhân thử đắp một cái xem. Qua mấy ngày, tượng thành, cao 7 tấc và thật là tinh xảo, Ngài cười rằng: Thượng-nhân biết đắp tượng mà không biết Phật-tánh! Nhưng Ngài lại xoa đầu tượng ấy mà thọ ký vĩnh viễn làm ruộng phước cho nhân thiên.

Có một vị Sư đọc bài kệ của Ngài Ngọa-Luân như sau: “Ngọa-Luân có nghề hay: cắt đứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm không sanh, Bồ-đề ngày càng lớn”. Ngài Huệ-Năng nghe xong, bảo: Các người làm y như vậy thì thắt chặt thêm cái dây trói mình đó. Nhân đó, Ngài nói một bài kệ ngược lại: “Huệ-Năng không nghề hay, không đoạn trăm tư tưởng, đối cảnh tâm sanh luôn, Bồ-đề lớn sao được”.

Trong khi Ngài Huệ-Năng ở chùa Bảo-Lâm, Tào-Khê, thì Ngài Thần-Tú ở chùa Ngọc-Tuyền, Kinh-Nam. Bấy giờ cả hai bên đều thạnh hành, ai cũng gọi là Nam Năng, Bắc Tú, nên tự nhiên chia thành 2 tôn Bắc, Nam và chia ra 2 thuyết tiệm, đốn, làm cho học giả không biết theo ai. Nên Ngài Huệ-Năng bảo đồ chung: “Đạo-pháp vốn một tôn chỉ, chỉ vì người ở Bắc Nam mà thôi. Đạo pháp là duy nhất, chỉ vì sự thấy biết có mau có chậm, chứ làm gì có cái đốn-pháp khác với tiệm-pháp. Đạo-pháp không có đốn-tiệm, chỉ có người hoặc độn căn hoặc lợi căn mà gọi là đốn và tiệm mà thôi”. Thái độ của Ngài Huệ-Năng như vậy, nhưng đồ chúng của Ngài Thần-Tú thỉnh thoảng chê Tam tôn rằng Tổ sư không biết chữ thì có sở trường gì. Ngài Thần-Tú nghe vậy bảo rằng: Ngài Huệ Năng được vô-sư-trí, thâm ngộ thượng-thừa, tôi thiệt không bằng. Huống chi Thầy ta là Tổ sư thứ năm đích thân truyền phú y pháp cho thì đâu phải là vô cớ. Ta hận không thể đi xa thân cận Ngài Huệ-Năng, ngồi đây mà nhận sự trọng đãi của quốc gia một cách vô ích. Vậy các người đừng lưu luyến ở đây, hãy qua mà tham bái Ngài ở Tào-Khê, để giải quyết đời mình”. Bảo đồ chúng như vậy rồi, một ngày nọ, Ngài Thần-Tú sai một người môn đồ tên là Chí-Thành ra đi, với những lời căn dặn như sau: Ông thông minh nhiều trí, vậy hãy vì ta đến Tào-Khê nghe pháp, nghe được điều gì thì hết lòng ghi nhớ để về nói lại cho ta.

Chí-Thành vâng mệnh, đến Tào-Khê tùy  
chúng thính pháp, nhưng lại không nói rõ mình ở đâu. Ngài Huệ-Năng mới bảo đồ chúng rằng: Trong đại hội này có kẻ nghe trộm đạo-pháp. Chí -Thành liền ra làm lễ, nói rõ công việc của mình. Ngài bảo: Ông chắc là một kẻ dò dặc. Chí-Thành nói không phải, Ngài bảo: Không phải thế nào được? Chí-Thành thưa: Chưa nói thì còn phải, nói rồi thì phải thế nào được! Lại bạch: Sanh tử là đại sự, nguyện xin Tổ sư từ bi chỉ giáo cho đệ tử. Ngài Huệ-Năng hỏi: Ngài Thần-Tú nói về giới định huệ như thế nào? Chí-Thành thưa: “Không làm các điều ác là giới, phụng thành các điều thiện là huệ, tự thanh tịnh tâm ý là định”, đó là lời dạy của Ngài. Ngài Huệ-Năng bảo: Nếu tôi nói có đạo pháp và có người thừa truyền đạo pháp thì thế là tôi mê
hoặc ông, nên tôi chỉ  “tùy phương cổi mở” mà thôi. Giới định huệ như Ngài Thần-Tú dạy thật là bất khả tư nghị, nhưng lại có khác với giới định huệ tôi nói. Chí-Thành thưa: Giới định huệ chỉ có thể là một, sao lại có thể có khác được. Ngài bảo: Giới định huệ của Ngài Thần-Tú tiếp độ một hạng người, giới định huệ của tôi tiếp độ một hạng người khác. Mà người học đạo thì sự hiểu biết của họ không đồng nhau, nên có kẻ mau có kẻ chậm. Ông hãy nghe giới định huệ mà tôi sẽ nói sau đây, xem có giống với Ngài Thần-Tú không. Tôi nói là không rời tự tánh mà nói, mà thuận tánh khởi dụng mới thật là giới định huệ. Ông hãy nghe bài kệ của tôi đây:

Tự tánh không lỗi lầm là giới,

Tự tánh không si mê là huệ,

Tự tánh không loạn động là định;

Tự tánh bất tăng bất giảm như kim cang,

Mặc dầu thân thể đi hay đến mà lúc nào cũng vẫn là thuyền định.

Chí-Thành nghe bài kệ ấy liền đại ngộ, trình Ngài bài kệ như sau:

 

     

     

     

     

           

Ngài Huệ-Năng hứa khả bài kệ ấy và dạy rằng: Ngộ tự tánh thì không lập - tức không cố chấp bồ đề, giải thoát, không có một pháp gì thật có, rồi chính vì không có một pháp gì thật có nên có thể kiến lập - tức không bác khước vạn pháp, trong đó bồ đề cũng có, giải thoát không phải không. Vậy nên người kiến tánh thì kiến lập cũng được, bác khước cũng được, hoạt dụng tự tại, không bị ngăn trở, không bị bít lấp, ứng theo trường hợp mà hoạt dụng, tùy theo ngữ khí mà đối đáp, phổ hiện diệu dụng mà không rời tự tánh. Chí-Thành thưa: Thế nào là cái nghĩa không lập? Ngài Huệ-Năng trả lời: Tự tánh không phải lỗi lầm, không phải si mê, không phải loạn động, nên niệm niệm quán chiếu, phá trừ pháp chấp, tự tại vô ngại, không gian cũng như thời gian hoạt dụng được cả, như vậy thì có cái gì đáng lập. Tự tánh tự ngộ ấy là đốn ngộ và đốn tu, không có tiệm thứ, nên không lập các pháp, mà các pháp vốn tịch diệt, thì có cái gì gọi là thứ lớp? Chí-Thành nghe dạy, liền đảnh lễ Ngài Huệ-Năng, hết lòng hầu hạ, hôm sớm không mỏi.

Chí-Triệt người Giang-tây, thiếu thời vốn là hiệp sĩ. Từ khi nam bắc phân hóa, thì tuy các Ngài chủ trì 2 bên quên hết bỉ ngã, nhưng đồ chúng không khỏi thương ghét. Đồ chúng phía  bắc lén bảo Chí-Triệt đến Tào-Khê hành thích, nhưng Ngài Huệ-Năng dự biết, kiếm mười lượng vàng để nơi chỗ ngồi, đêm đến, Chí-Triệt đột nhập, Ngài đưa cổ ra cho, nhưng Chí-Triệt chém 3 lần mà không thương tổn gì. Ngài mới bảo gươm chánh thì không làm điều tà, gươm tà thì không hại được người chánh, còn quả  báo thì ta nợ ngươi bằng vàng chứ không phải tánh mạng. Chí-Triệt nghe nói, kinh sợ té ngữa ra, giây lâu mới tỉnh, ai cầu sám hối và nguyện xin xuất gia. Ngài Huệ-Năng đưa vàng cho, bảo rằng: Hãy đi đi đã, nếu không e đồ chúng làm hại. Ngày khác hãy thay đổi hình dạng mà đến, tôi sẽ nhiếp hóa cho. Chí-Triệt vâng lời, trốn liền đêm ấy. Sau này, khi xuất gia rồi, một hôm, Chí-Triệt nhớ lời của Ngài nên đến yết kiến, Ngài bảo: Tôi nhớ ông lâu nay, sao đến chậm vậy? Chí-Triệt thưa rằng: Ơn Ngài xá tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh, cũng thấy khó mà báo đáp ân đức; muốn báo đáp ân đức Ngài, con nghĩ chỉ duy có việc hoằng pháp độ sanh mà thôi. Con thường xem kinh Niết-bàn mà không hiểu cái nghĩa thường và vô thường, cúi xin Ngài từ bi chỉ dạy cho con. Ngài bảo: Vô thường là Phật -tánh, còn thường là các pháp. Chí-Triệt kinh ngạc: Ngài nói có trái với khế kinh không? Ngài bảo: Truyền Phật tâm ấn mà dám nói trái với khế kinh Phật dạy sao. Chí-Triệt thưa: Kinh nói Phật-tánh là thường, còn các pháp vô thường, nay Ngài nói trái lại, làm cho con càng thêm nghi hoặc. Ngài Huệ-Năng bảo: Kinh Niết-bàn ngày xưa tôi đã được ni-cô Vô-tận-tạng tụng cho nghe một biến rồi. Ông không nhận ra lời tôi nói chăng? Phật-tánh nếu thường thì vạn kiếp cũng không có được lấy một người phát bồ đề tâm, nên vô thường tôi nói chính là tánh chân thường Phật dạy đó. Còn các pháp nếu vô thường thì tánh chân thường có chỗ không phổ biến, nên tôi nói thường chính là tánh chân vô thường Phật dạy vậy. Ông chỉ theo tiếng mà bỏ nghĩa, nên lầm cho sự đoạn diệt là vô thường và sự cố định là thường, không lãnh hội được cái lý chân-thường mà Phật dạy để phá cái chấp thường của ngoại đạo và cái chấp vô thường của nhị-thừa. Chí-Triệt nghe như vậy thì hoát nhiên đại ngộ, nói bài kệ như sau:

Bởi giữ cái tâm vô thường,

Nên Phật dạy tánh chân thường,

Mà không biết ý phương tiện,

Chỉ lượm ngói trong ao vàng,

Ngày nay không phí công lao

Mà Phật tánh được hiện tiền,

Ấy không phải là Thầy cho,

Cũng không phải là ta được.

 

Ngài Huệ-Năng bảo: Ông đã thấu suốt rồi đó, nên đặt tên là Chí-Triệt (chứ từ trước đến nay vốn tên là Hành-Xương), Chí-Triệt liền bái tạ: Ngài Huệ-Năng thấy những kẻ ác tâm phần nhiều có mặt trong đồ chúng, nên thương xót mà dạy rằng: Người học đạo phải tận trừ hết thảy cái niệm thiện ác; không có tên riêng biệt mới tên là tự tánh, không có tánh chia hai mới tên là thật tánh, chính nơi thật tánh ấy thiết lập ra hết thảy pháp môn thì các người phải ngay nơi một lời nói mà thấy tự tánh của mình. Nghe lời ấy ai cũng lạy Ngài, xin thờ Ngài làm Thầy.

 

Y

 

 

Điều quan trọng nhất, sau khi lược thuật cơ hóa độ của Ngài Huệ-Năng như trên đây, chúng ta phải hiểu rằng đấy chỉ là “tùy phương cởi mở” chỉ là “ứng dụng tùy tác” và “ứng ngữ tùy đáp”, và chính vì vậy mà ích lợi được cho tất cả những người đương cơ. Chúng ta không nên tìm lấy một định lý nào trong đó, nhất là không thể học lấy đôi điều mình thích, hòng làm sáo ngữ mà khuôn theo, rồi nói để mà nói, bất cần và cũng không thể nào biết đến lợi hay hại cho người nghe mình nói. Đến như Ngài Huệ-Năng, lấy cái thân quê mùa đến nỗi ngôn ngữ cũng không đúng, mà đương cơ hóa độ đến như tất cả trường hợp mà ta đã biết, thì quả thật là “người quá lượng” vậy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 
   
 
  
Tìm kiếm

 
  
Tìm trên:     hoangphap.info web khác
Visitor Number: 
Hôm nay