MỐI QUAN HỆ ĐẶC BIỆT: PHẬT GIÁO – VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC –
NHÀ NƯỚC LIÊN XÔ
Minh Thạnh
Trong hơn 70 năm, nhà nuớc Liên Xô đã có những chuyến biến quan trọng trong quan điểm, từ đó đưa đến những chính sách khác nhau đối với Phật giáo tại Liên Xô.
Bài viết này bước đầu lý giải vì sao đã có những bước chuyển đổi quan trọng trong cách nhìn của nhà nước Liên Xô đối với Phật giáo Liên Xô.
QUAN HỆ DƯỚI THỜI SA HOÀNG
Phật giáo được ghi nhận đã có mặt trên lãnh thổ Nga từ cuối thiên niên kỷ thứ I sau công nguyên.
Năm 1741, triều đình nước Nga Sa hoàng chính thức công nhận Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Nga và từ đó đã có một số hậu thuẫn nhất định đối với Phật giáo.
Sở dĩ Phật giáo Nga có được sự hậu thuẫn đó vì triều đình Nga lúc bấy giờ hiểu rõ về Phật giáo nói chung. Họ đã thấy được bản chất của đạo Phật và từ bi, ôn hòa. Tôn trọng và hậu thuẫn cho sự phát triển Phật giáo ở Nga chỉ có lợi cho nhà nước Sa hoàng, cho sự phát triển của nước Nga, đặc biệt là ở châu Á.
Điều này có liên hệ mật thiết đối với những thành tựu của khoa Đông phương học của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia lúc đó nói riêng và ngành Đông phương học của Nga nói chung.(*)
Cuối thế kỷ XIX, tại Nga, đã có một ngành khoa học gọi là Buddhology (Phật học), độc lập với Sinology (Trung Quốc học) và Indology (Ấn Độ học).
Các trí thức hàng đầu của Nga, đặc biệt là các viện sĩ hàn lâm và các nhà qúy tộc đã ảnh huởng lớn đối với quan điểm và chính sách của chính phủ Sa hoàng đối với Phật giáo.
Có thể ghi nhận mối quan hệ đặc biệt giữa Phật giáo Nga với Viện Hàn lâm Khoa học Nga, lúc đó gọi là Viện Hàn Lâm Khoa học Hoàng gia. Chính mối quan hệ đặc biệt này đã quyết định quan hệ Phật giáo Liên Xô với nhà nước Liên Xô những năm sau đó.
QUAN HỆ SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
Sau Cách mạng Tháng Mười, về cơ bản, Phật giáo tại Liên Xô vẫn được đối xử trong sự tôn trọng nhất định, dù là không tránh khỏi một số vấn đề trong bối cảnh căng thẳng của nội chiến.
Các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã can thiệp với nhà nước để bảo lãnh cho Lạc ma A. Dorzhiev, được coi là quan hệ mật thiết với hoàng gia Nga bị phế truất, được tự do. Quan hệ ba bên Phật giáo - Viện Hàn Lâm Khoa học – Chính phủ cơ bản vẫn trong thế ổn định. Chính phủ vẫn lắng nghe ý kiến về Phật giáo từ các viện sĩ.
Tham khảo ý kiến của Viện Hàn Lâm Khoa học, Dân ủy phụ trách giáo dục (tức Bộ trưởng giáo dục) Liên Xô, giáo sư Anatoly Vasileyvich Lunacharsky (1875 - 1933) đã chỉ đạo Viện Bảo tàng mở cuộc triển lãm về nghệ thuật Phật giáo vào tháng 8 năm 1919.
Các nhà khoa học Nga đã giữ vai trò quan trọng trong sự kiện này với các bài thuyết trình về cuộc đời Đức Phật (Oldenburg), Giáo lý Phật giáo (Shtchebatskoy), Phật giáo ở Tây Tạng và Mông Cổ (B. Vladimortsov), về thế giới quan Phật giáo hiện đại ở Viễn Đông (Rosenberg)…
Năm 1921, chính quyền địa phương thành phố Petrograd cũng đáp ứng yêu cầu của Lạc ma A. Dorzhiev về việc bảo vệ và tái thiết tự viện Phật giáo tại đây. Năm 1922, vị kiến trúc sư thánh đuờng Hồi giáo tại Petrograd được bổ nhiệm phụ trách trùng tu và đặt hoạt động trùng tu dưới sự giám sát của Hội đồng Bảo tàng và bảo tồn di tích của Petrograd.
Trong khi đó, dân ủy phụ trách ngoại giao (bộ trưởng ngoại giao) của Chính phủ Xô viết dưới thời Lênin, ông Giorgy Visilievich (1872 - 1936), vốn là quý tộc trí thức tham gia cách mạng, đã đi tới quyết định áp dụng quy chế đặc miễn ngoại giao đối với Lạc ma A. Dorzhiev, xem ngài là đại diện ngoại giao chính thức của Tây Tạng tại nước Nga Xô Viết.
Điều này khiến cho Lạc ma A. Dorzhiev – lãnh đạo Phật giáo Nga có vị thế đặc biệt và được bảo vệ.
Chư tăng tại nước Nga Xô Viết cũng bày tỏ sự tôn trọng đối với chính quyền Xô Viết. Sau nội chiến, nhiều ngôi chùa Phật ở Viễn đông được tùng tu. Theo giáo sư Trần Quang Thuận, ở vùng Trans Baikal “…nhiều ngôi chùa mới được xây dựng và rất nhiều thanh niên xuất gia. Năm 1916 tại vùng này có tất cả 36 ngôi chùa, 16.000 Lamas, con số này được tăng lên gấp bội” (Phật giáo Nga, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2008, trang 258).
Trong suốt thời gian lãnh đạo, Lênin cũng có quan điểm nhìn nhận và đối xử với Phật giáo thông qua sự tư vấn của Viện Hàn lâm Khoa học. Giữa Lênin và Viện sĩ Oldenburg còn có tình cảm riêng. Anh của Lênin, Aleksandre Ulyanov, người bị Chính phủ Sa hoàng xử tử năm 1887 vì dự tính ám sát Nga hoàng Aleksandre III, từng là bạn đồng môn với Viện sĩ Oldenburg. Lênin đã giao cho Viện sĩ Oldenburg nhiệm vụ khôi phục lại hoạt động của Viện Hàn lâm Khoa học Nga.
Năm 1921, Dân ủy phụ trách giáo dục Lunacharsky, người cũng được coi là đã có nghiên cứu về Phật giáo, cử Shtchebatskoy đến châu Âu mua sách tham khảo cho Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Mối quan hệ nghiên cứu Phật học giữa Viện Hàn lâm Khoa học Nga các học giả phương Tây phát triển một bước sau chuyến đi này.
Riêng về Viện sĩ Oldenburg Dân ủy giáo dục Lunacharsky cũng nhận xét như sau (theo Wikipedia bản tiếng Nga: “[Oldenburg] là một trong những kết nối mạnh nhất, cần thiết nhất giữa Liên Xô với giới trí thức trên thế giới và đã hoạt động trong vai trò này với sự nổi bật đáng tôn trọng”).
QUAN HỆ SAU KHI LÊNIN QUA ĐỜI
Năm 1924, Lênin từ trần. Năm 1929, Oldenburg cũng thôi giữ chức vụ Thư ký thường trực Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, chức vụ mà ông được Lênin tái bổ nhiệm.
Cũng trong năm 1929, đã có những xáo trộn lớn về mặt nhân sự Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Việc sa thải các nhà khoa học, nhất là trong khối khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là trong ngành sử học, đã diễn ra liên tục trong nhiều năm.
Năm 1929, trước khi giải nhiệm, Oldenburg đã phải vất vả can thiệp để trọn bộ Luận lý học Phật giáo viết bằng tiếng Anh của Shtchebatskoy được xuất bản.
Sau những xáo trộn quan trọng về cán bộ nghiên cứu, năm 1934, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (đổi tên từ năm 1925) chuyển về Moskva.
Vào khoảng thời gian này, với việc các vị trí thức lớn như Oldenburg, Lunacharsky lần lượt qua đời, mối quan hệ ba bên Phật giáo - Viện Hàn lâm Khoa học – Nhà nước coi như không còn. Nhà nước Liên Xô không còn công cụ để hiểu Phật giáo.
Ngôi chùa đầu tiên bị đóng cửa vào năm 1929 là chùa Alar, xây dựng năm 1814 ở tỉnh Irkutsk.
Năm 1934, tự viện tại Leningrad bị đóng cửa.
Về phía hoạt động khoa học, thì từ năm 1930, Viện Văn hóa Phật giáo trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, do Viện sĩ Shtchebatskoy làm giám đốc, mới vừa thành lập không lâu đã phải giải thể, sáp nhập vào Viện Nghiên cứu phương Đông.
Bước chuyển đổi quan điểm của Nhà nước Liên Xô bấy giờ đối với Phật giáo có liên hệ mật thiết với những thay đổi ở Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và vị thế của Viện đối với quan chức Liên Xô khi đó (thời kỳ sau khi Lênin mất). Những ý kiến trong khoảng giữa những năm 1930 của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô về việc lưu giữ và bảo tồn ở mức tối thiểu các bộ sưu tập cổ vật nghệ thuật và thư viện Phật giáo cũng chỉ được giải quyết rất hạn chế.
Wikipedia, mục từ “Phật giáo tại Nga”, bản tiếng Nga, cho biết: “Trong gần hai thập kỷ, tại Nga việc nghiên cứu Phật giáo bị ngưng hoàn toàn”. Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô không còn những viện sĩ uyên thâm Phật giáo.
QUAN HỆ TRONG NHỮNG NĂM CUỐI THẬP NIÊN 1950, CÁC THẬP NIÊN 1960, 1970
Sau những thay đổi nhân sự cấp cao ở Liên Xô cuối những năm 1950, quan điểm của nhà nước Liên Xô về Phật giáo có chuyển biến dần dần. Điều này diễn ra song song với sự khởi sắc trở lại của Viện Nghiên cứu Đông phương, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Tuy nhiên, về phía chính phủ vẫn còn ý kiến khác biệt. Những quan chức mới vào thời kỳ đó, sau hai thập niên gián đoạn nghiên cứu, đã chưa hiểu nhiều về Phật giáo.
Năm 1957, nhà nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng và Mông Cổ Yuri Roerich (1902 - 1960) được mời trở về Liên Xô giảng dạy tại Viện Nghiên cứu Đông Phương, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Học giả này đã tập hợp được một nhóm nghiên cứu Phật học người Nga như Aleksandr Moisevich Piatigorsky, Skirim, Geresimov, Glagov, Elizavenkova. Dưới sự hướng dẫn của Roerich, nhóm nghiên cứu này cố gắng khôi phục hoạt động nghiên cứu theo trường phái Oldenburg – Shtchebatskoy. Tuy nhiên, vị trí ngành Buddhology trong Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô không thể như xưa sau hai thập kỷ đình trệ, kéo theo đó là việc hồi phục Phật giáo tuy khởi động, nhưng chỉ có kết quả chừng mực.
Một bộ phận nhỏ trong Tủ sách Phật học do Oldenburg và Shtchebatskoy chủ xướng, quyển Kinh Pháp cú – bản dịch tiếng Nga, được tái bản, nhưng phải nhờ vào sự can thiệp của Đại sứ Tích Lan tại Liên Xô.
Ý kiến từ các nhà ngoại giao Liên Xô, rằng sự hiện diện của Phật giáo tại Liên Xô sẽ đóng góp vào việc xây dựng quan hệ giữa Liên Xô với các nước thế giới thứ ba theo Phật giáo như Tích Lan, Miến Điện…, cũng có một số tác động, nhưng, trong truyền thống chung của nước Nga, phải đợi đến tiếng nói từ Viện Hàn Lâm Khoa học. Lần này là vai trò của Viện sĩ Valery Isaevich Rudoy (1940 - 2009).
QUAN HỆ TRONG THẬP NIÊN 1980
Từ năm 1980, các tác phẩm nghiên cứu Phât học của I. Rydoy đã tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho Phật giáo Liên Xô. I. Rydoy từng bước hình thành nhóm nghiên cứu Phật học mới trong Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Năm 1989 được coi là năm đạt được kết quả chính thức phục hồi trường phái Phật học Oldenburg – Shtchebatskoy trong Viện Nghiên cứu Đông Phương, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, một nỗ lực do viện sĩ T. Rydoy lãnh đạo thực hiện từ những năm trước.
Tại phân viện ở Leningrad, cũng nổi lên tên tuổi của Evgeny Alekseevich Torchinov (1956 - 2003). Nhà nghiên cứu Phật học này đã công bố các bản dịch chú giải Kinh Kim Cương, Bát Nhã Tâm Kinh bên cạnh rất nhiều công trình Phật học khác.
Từ đó, mối quan hệ Phật giáo - Viện Hàn lâm Khoa học – Nhà nước được tái lập.
Trong những năm 1980 – 1990, với những nhà Phật học mới của Viện Hàn lâm Khoa học, nhà nước Liên Xô, đã bước đầu hiểu rõ Phật giáo, coi Phật giáo là một tôn giáo nhân bản, hòa bình, trí tuệ, có ích. Liên Xô được giới thiệu với thế giới là một quốc gia có sự hiện diện của Phật giáo. Liên Xô có tổ chức Phật giáo với trụ sở trung ương đặt tại tự viện Ivolginsk, Buryat. Tự viện này được xây dựng từ 1970 tiếp theo những công trình nhỏ trước đó, và được liên tiếp mở rộng trong những năm sau.
Sự kiện cuối cùng của tiến trình chuyển đổi quan điểm của nhà nước Liên Xô đối với Phật giáo là việc hoàn trả tự viện Gunzechoney, Leningrad vào năm 1990.
Hiện nay, ở Liên bang Nga mối quan hệ đặc biệt ba bên như trên vẫn tiếp tục và phát triển, thúc đẩy tương lai xán lạn của Phật giáo Nga.
Có lẽ không có nơi nào trên thế giới mà hoạt động tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, lại vận hành trong một mối quan hệ đặc biệt như thế.(**)
MT
Ghi chú:
(*)Viện Hàn lâm Khoa học Nga được Đại đế Peter I thành lập năm 1724. Tên ban đầu là Viện Hàn lâm Khoa học Saint Petersburg, bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Ngay từ khi mới thành lập, nghiên cứu phương Đông là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Viện, đặc biệt là những năm Hoàng thân Ekaterina Dashkova làm viện trưởng.
Dưới thời Nga hoàng, Viện đã giữ vai trò “think tank” cho nhà nước dù lúc đó chưa hình thành thuật ngữ này. Năm 1747, Viện mang tên Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia. Năm 1803, rút gọn tên thành Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia. Năm 1917, có tên gọi mới là Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Năm 1925, Viện đổi tên thành Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, nhưng vẫn đặt trụ sở tại Leningrad, đến năm 1934 thì dời về Moskva. Hiện nay, tên Viện Hàn Lâm Khoa học Nga được khôi phục.
Thư viện Viện Hàn lâm Khoa học Nga được thành lập cùng năm với Viện, là một thư viện tầm cỡ thế giới, lưu giữ nhiều thư tịch quý giá của phương Đông, trong đó có thư tịch cổ Phật giáo, đã bị hỏa họan hủy hoại nặng nề vào năm 1988.
(**) Có thể tham khảo chi tiết một số sự kiện từ Trần Quang Thuận – Phật giáo Nga, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2008. Tuy nhiên, những luận điểm trong bài viết này thì công trình nói trên chưa đề cập tới.
|