Thì cành mai vẫn nở
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
春 去百 花 洛
春到 百 花 開
事逐 眼 前 過
老 從 頭 上 來
莫渭春殘 花 洛 盡
庭前 昨夜一枝 梅。
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Nghĩa:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Dịch thơ:
Xuân đi, đóa đóa hoa rơi
Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu
Việc đời, trước mắt qua mau
Tuổi già chợt đến trên đầu thế a?
Xuân tàn chớ bảo không hoa
Một cành mai nở, đêm qua, trước thềm.
Confession de sa maladie à tous
Printemps s’en va, toutes fleurs s’éparpillent,
Printemps s’en vient, elles s’épanouissent glorieusement.
La vie s’écoule, s’écoule éterrnellement,
Jaunâtre, sur nos cheveux, l’ombre de la vieillesse arrive.
Pensez pas que toutes fleurs se fanent quand printemps s’en aille,
Hier soir, dans la cour, une branche d’abricot apparaît.
(Traduction du poème de Vénérable Mãn Giác)
(1052-1096)
Telling all the illness
Spring goes by, falling down all flowers
Spring comes, they show off their blooming.
Before our eyes, worldly events fly, naturally fly,
On our head, sadness of old age appears.
But think not that flowers fade when spring’s past
In the courtyard, last night, an apricot branch blossomed.
Mỗi lần xuân đến, những tạp chí Phật giáo đây đó thường nô nức nhắc đến bài kệ thơ của Thiền sư Mãn Giác với những bài bình giảng thật vô cùng trân trọng. Thỉnh thoảng ta cũng bắt gặp đâu đó trong các bài bình luận văn học, cành mai kia cũng lọt vào cặp mắt xanh của các vị giáo sư, tiến sĩ với thẩm quyền chuyên môn về kiến thức và nhãn quan của mình. Ai cũng nói đây là bài thơ thấm đẫm hương vị thiền. Và, giá trị mỹ học tuyệt vời của nó, dẫu đã một ngàn năm qua đi, vẫn còn mới mẻ, tinh khôi như hạt sương, như ánh nắng long lanh giữa ngàn cây, nội cỏ...
Bài thơ ngắn quá, rất ngắn, lại còn phá cách, phá thể, ngôn từ dị giản - được làm vào lúc "cáo bệnh, dạy học trò" - mà sao ông đã để lại cho văn học sử một tác phẩm bất hủ, vượt thời gian? Bài thơ dường như còn để lại một khoảng trống, một khoảng lặng, một khoảng "ở ngoài lời"; khơi gợi một thế giới tâm linh - mà ở đó - thấp thoáng ẩn hiện mảnh trăng thiền lung linh giữa từng con chữ! Thế gian trí năng đa biện, lý trí kiêu ngạo nầy chắc phải còn tốn nhiều giấy mực về bài thơ của ông. Những cái gọi là nghệ thuật hình tượng, thi pháp, tu từ... với những kiến thức hàn lâm, kinh viện, phạm trù... lại còn kính hiển vi ngữ học thời đại nữa... không biết "thiền ý của cổ đức xưa" được giải mã qua mấy ngàn "trùng quan ý niệm"? Chỉ có điều, đối với "thiền" thì "hay" chưa chắc đã "đúng" và "dở" chưa chắc đã "sai"! Và rồi, cái "hay-dở-đúng-sai" kia-đều không quan trọng, cái cốt tử của nó là trao truyền "thiền ý" cho chúng đồ, tiếp sức cho mạng mạch Phật giáo, thêm năng lượng sự sống và niềm tin cho hàng hậu học sa-môn.
Vậy, chúng ta hãy thử mạo muội đi tìm cái "thiền ý" ấy là gì?
春 去百 花 洛
春到 百 花 開
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân đi, đóa đóa hoa rơi
Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu)
Hai câu thơ đầu tiên này, mới nghe qua ta tưởng như bình thường, cái bình thường tự nhiên trong sự dịch hóa của vạn hữu. Ngàn xưa vẫn vậy, ngàn sau vẫn vậy, vẫn là định luật tuần hoàn chuyển đổi của đất trời. Nó không xấu hơn, cũng chẳng tốt hơn.
Nhưng, tại sao, từ cảm quan nào, cảm thức nào mà Thiền sư thi sĩ lại phá vỡ trật tự thói quen của lập ngôn, lập ngữ? Ai cũng nói "đến rồi đi", "nở rồi tàn", nhưng ở đây thì ngược lại? Cái động từ "khứ" với nghĩa động là "đi tới", nghĩa tĩnh là "qua", "đã qua", có "mật ngữ", "thiền ý" gì không? Rồi "đáo" đi sau, nghĩa động của nó là "đến"; nhưng nghĩa tĩnh của nó là "chu toàn, đầy đủ, viên mãn" - có cho ta một "chớp lóe tâm linh" nào chăng?
Giải mã những điều ấy nếu dùng những hiểu biết thông thường thì e không tới. Mà cho dù kiến thức bác lãm, trí năng thông tuệ thì cũng ở bên này mép rìa của thực tại mà thôi!
Đây là bài thơ thiền. Thiền sư là một hành giả. Nếu muốn nắm bắt ý nghĩa uyên áo giấu kín sau từng con chữ thì người đọc có thể lãnh hội trọn vẹn cũng phải là một hành giả. Nói cách khác, nó là bài thơ thiền thì ta phải có tâm thiền để nhìn ngắm. Ở đây, "nhìn ngắm", là "quán chiếu thực tại". Đừng bắt tôi định nghĩa thực tại là gì? Khi ta thấy thực tại là gì nó đã chảy trôi rồi. Chỉ có những hành giả tu tập tuệ quán mới ý thức được hơi thở và từng tế bào sự sống trong tương quan ngoại giới - chúng đang chảy trôi, đang đi qua, đi qua. Tất cả đều đang chảy trôi, đang đi qua trong từng sát-na tâm niệm cũng như những sát-na dịch hóa của đất trời. Vậy, trong cái tâm nhãn, thiền nhãn ấy, "xuân khứ" là đúng với "hiện quán", đúng với cái nhìn của thiền gia! Và, biết đâu, từ trong sâu thẳm tâm linh, Mãn Giác Thiền sư còn gởi gắm tiếng gọi thống thiết muôn đời của Pháp Bát-nhã Tâm kinh: "Gate, gate... đi qua, đi qua...?! " Tuy nhiên, đấy là sản phẩm của lý trí đa sự, chất chồng thêm ý niệm mà thôi. Vậy còn "đáo"? Khi "khứ" là đi qua như thế thì "đáo" cũng đâu hẳn là thường ngữ?
Dĩ nhiên rồi. Ngoài định luật tự nhiên - xuân về thì trăm hoa nở - chữ "đáo" đi sau chữ "khứ" chỉ là tạo lập trật tự cho mệnh đề. "xuân đến" hay "xuân về" đều có thể diễn nghĩa động là "đáo", còn nghĩa tĩnh là "chu toàn, đầy đủ, viên mãn" thì quả là ta sẽ có một trời ý niệm và liên tưởng thú vị. Có lẽ Thiền sư Mãn Giác không "đa sự" như chúng ta.
事逐 眼 前 過
老 從 頭 上 來
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
(Việc đời trước mắt qua mau
Tuổi già chợt đến trên đầu thế a?)
Hai câu thơ dịch may lắm thì nói được cái nghĩa, không dễ gì "tín, đạt, nhã" như cổ nhân yêu cầu. "Sự" nôm na là việc đời, chuyện đời. Động từ "trục", nghĩa động là "đuổi, đuổi theo"; nghĩa tĩnh là "trước sau nối tiếp nhau". Vậy, việc đời nó "đuổi", nó "nối tiếp nhau" chạy qua trước mắt.
Câu sau, vế đối cũng được hiểu như vậy. "Già, cái già, tuổi già" nó theo trên đầu nó đến.
Cả hai câu thơ đều vắng bặt bản ngã, và ngay "pháp" cũng trôi chảy "vô ngã tính".
Phải có cái tuệ quán tỉnh táo mới mình nắm mình, ngoại giới một cách chân xác, rỗng rang và giải thoát như vậy. Ngoài ra, chúng ta còn để ý động từ "quá" và "lai" rõ ràng nó nhất quán với hai động từ "khứ" và "đáo" đi trước nó.
Đến đây, cái kiến giải "thiền ý" ấy ta đã có cơ sở hợp lý, logic - do từ cái nhìn thiền quán của tác giả.
Và cũng từ cái "quán chiếu thực tại" ấy, như dồn tụ năng lực, để đẩy hai câu cuối đến một chân trời thâm viễn hơn.
莫渭春 殘 花 洛 盡
庭前 昨夜一 枝 梅
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
Chữ "xuân" trong hai câu đầu là thường ngữ, ngôn ngữ tục đế, tục thể, ai cũng biết, ai cũng hiểu. Hiểu và biết theo phạm trù trí năng. Nhưng chữ "xuân" trong câu áp cuối, không như vậy. Nó vừa mang sứ mạng thường ngữ, vừa lung linh vầng trăng thiền ngữ-biểu tượng cái đẹp xuất thế. Cái vầng trăng thiền ngữ ấy, cái đẹp ấy không thể dùng trí năng để "hiểu và biết" mà là phải "thấy", cái thấy của tuệ giác, của trực kiến tâm linh.
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng trôi chảy theo định luật tự nhiên của vạn hữu. Người có được mùa xuân tâm linh này không còn bị chi phối bởi vô thường tính, vô ngã tính của cuộc đời. Họ không còn than thở như cụ Tiên Điền: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"! Bậc đạt ngộ nhìn ngắm sự chảy trôi, tụ tán, sinh diệt của vạn hữu với cái nhìn "tỉnh táo, trạm nhiên và an định". Họ đã trở về tao ngộ với quê hương, với miền đất an bình muôn thuở. Ở đấy, tại mùa xuân vĩnh cửu ấy, cái "tâm hoa" của họ không còn bị sự vô thường chi phối nữa. Cái "thiền ý" ấy bây giờ đã hiện ra bằng cách phá bỏ ý niệm thông tục: "Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết". Rồi kế đó là dẫn dắt chúng ta đến cánh cửa "huyền mật", mở ra một không gian khác, thời gian khác - khác với không-thời-gian mà mọi người đang sống.
庭前昨夜一枝梅
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đêm qua, sân trước, một cành mai)
Thiền ý bây giờ đã lộ rõ: Cành mai này không còn là cành mai của thế gian, cành mai của nở-tàn thông tục nữa. Nó không còn bị chi phối của định luật sinh diệt, hữu hạn cũng như sự vận hành âm dương của trời đất.
Vậy thì cành mai ấy ở đâu? Nó ở "trước sân" và mới nở "đêm qua". Đến đây, ta đã thấy rõ không gian (trước sân) và thời gian (đêm qua) rất đỗi lạ lùng, mà chỉ có tâm thiền mới thấy được. Không-thời-gian ấy mới nở được cành mai ấy. Và không có gì rõ ràng hơn thế nữa.
Tuy nhiên, vẫn còn "bí hiểm", bí hiểm cho những ai chưa trực kiến giây khắc "đốn ngộ", chưa thực sự bước qua hố thẳm của lý trí nhị nguyên. Nói rõ hơn, là chưa kinh nghiệm tuệ giác bên kia bờ. Chỉ khi nào hội diện, "cước căn điểm địa" miền đất ấy, không-thời-gian ấy, ta mới hiểu được "tiếng cười dài lạnh buốt thái hư" của Thiền sư Không Lộ.
"Đêm qua" - là thời gian, là quá khứ. Nói về sự nhất quán của "ý tứ", thì quá khứ ở đây sẽ logic, chặt chẽ với những cặp thơ đi trước "khứ, đáo", "quá, lai". Ngoài ra, nếu ai có kiến thức tuệ giác kinh viện sẽ hiểu rằng, giây khắc ngộ đạo chỉ xảy ra trong một sát-na, rồi nó diệt mất, nhường sát-na kế cho đạo tâm. Ngộ đạo chỉ là giây khắc chớp lóe của tâm linh, sau đó nó trôi về quá khứ. Một sát-na đã là quá khứ. Tuy nhiên, người đạt ngộ tuy có ý niệm về quá khứ, về thời gian-nhưng họ luôn trực thức, luôn "hiện kiến" để sống trong từng hơi thở "không có thời gian", "ở ngoài thời gian". Chính cái thời gian "ở ngoài thời gian" ấy - không gian tâm linh mới được thiết lập. Không gian tâm linh thiết lập là khá ước lệ: "Trước sân". Tại sao là "trước sân", là "đình tiền" mà không là "bên sân, sau sân" (đình biên, đình hậu)?
Rõ ràng "sân" ấy là mảnh đất tâm. Cái tâm ấy là mảnh đất để cho cành mai nở. Sát na tâm "trực ngộ", "hiện kiến" là nó luôn chảy trôi, nó luôn mở ra, ngạc nhiên, đón nhận dung thông các pháp đến từ ngoại giới. Cái tâm ấy phải "không" mới đón nhận được. Do vậy, cái tâm ấy không thể là "bên tâm, sau tâm" - mà phải là cái tâm luôn trực kiến cái hiện tiền; phải là "đình tiền, tâm tiền" mới chính xác.
Rồi cành mai nở. Cành mai nở là tuệ giác bừng nở. Tuệ giác bừng nở, nở nơi mảnh đất tâm, không còn bị quy định bởi không-thời-gian tại thế, ước lệ nữa.
Cuối cùng, để thêm tính thuyết phục cho sự giải mã này, ta phải trở lại một ngàn năm trước, để biết rằng Mãn Giác Thiền sư thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông truyền pháp cho Cảm Thành-thì ông đã ngộ được yếu chỉ: "Tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu" từ Bách Trượng Hoài Hải. Vậy Mãn Giác Thiền sư là hậu duệ của truyền thừa, sáng tạo câu thơ "Đêm qua, sân trước, một cành mai" để thi vị hóa, tăng giá trị văn học, mỹ học cho câu thiền ngữ xưa bằng những hình tượng nghệ thuật không là điều kỳ diệu sao? Tuệ nhật tự chiếu - cành mai nở - đấy là mùa xuân vĩnh cửu, là miền đất hứa cho những người con Phật và cả cho những chúng sanh đang lăng xăng xuôi ngược giữa miền cát lấm bụi đỏ này!
Ôi! Một bức thông điệp về mùa xuân đã một ngàn năm qua đi mà dường như vẫn còn cháy sáng ý tưởng, bập bùng giữa tâm thức trần gian. Có ai nghe, ai thấy? Hay vẫn tịch lặng muôn đời trong hố thẳm vô ngôn?
Thì cành mai vẫn nở! Bodhisvaha!
|