Ý nghĩa VU LAN
(Pháp thoại VL - TT. Thích Thái Hòa, giảng cho các
đạo tràng tu học tại Huế)
Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật
Thưa đại chúng !
ôm nay là ngày lễ Vu Lan. Vu Lan tiếng Phạn gọi là Ulumpāna, nó có rất nhiều nghĩa, nhưng nghĩa căn bản của Vu Lan là “Giải đảo huyền”. “Huyền” nghĩa là sợi dây. Mở sợi dây cho người đang bị cái khổ treo ngược, gọi là “giải đảo huyền”.
Hãy mở sợi dây:
Thưa đại chúng !
Có cái khổ nào khổ hơn người đang bị treo ngược, người bị treo ngược đó có thể là cha mẹ ta, có thể là người ta thương yêu, có thể là tổ tiên ông bà nội ngoại của ta, cũng có thể đồng loại của ta và rộng ra nữa có thể là pháp giới chúng sanh.
Sở dĩ bị treo ngược, là bởi vì do miệng của họ nói ác, thân của họ chuyên làm ác, tâm của họ chuyên nghĩ ác. Nói ác là nói những lời bất hiếu với cha, với mẹ, bất hiếu với tổ tiên ông bà. Nói ác tức là nói những lời không đưa đến sự hòa hợp đoàn kết hữu ích; nói ác nghĩa là nói không chân thật. Do nói những lời nói như vậy, nên đưa đến quả báo bị treo ngược.
Thân làm ác là làm như thế nào ? Là làm những điều gây đau khổ cho mọi người, như giết hại, trộm cắp, tà dâm..., đó gọi là thân làm ác.Tâm nghĩ ác, là tâm luôn luôn nghĩ đến những điều ích kỷ hẹp hòi, tham lam, bần tiện, hận thù, trách móc, tâm nghĩ như thế gọi là tâm nghĩ ác.
Khi tâm đã nghĩ ác, miệng đã nói ác, thân đã làm ác, nhất định sẽ đưa đến quả báo làm ta bị treo ngược. Treo ngược ở trong đời sống của ngạ quỷ, của súc sinh, của địa ngục. Tuy nhiên, sợi dây treo ngược chúng ta, treo ngược cha mẹ chúng ta, treo ngược tổ tiên chúng ta, chúng ta rất dễ thấy, nhưng mà sợi dây treo xuôi chúng ta, treo xuôi cha mẹ chúng ta, treo xuôi ông bà chúng ta và khi bị treo xuôi như vậy, thì rất khó thấy, bởi vì sợi dây treo xuôi có khi nó lại êm ái, dễ chịu, nhưng mà lại cột chúng ta rất chặt.
Sợi dây treo xuôi đó là gì? Đó là phước báo của cõi trời, cõi người. Phước báo của cõi trời, cõi người, đôi khi chúng ta bị cái phước báo đó cột chúng ta rất chặt. Phước báo của cõi trời là chúng ta có thể làm đến Phạm Thiên, Đế Thích hoặc là phước báo cõi người, chúng ta có thể làm đến vị Chuyển Luân Thánh Vương ở trong thiên hạ, hoặc là chúng ta có thể rất giàu có. Tất cả những phước báo đó, còn nằm ở trong sinh tử luân hồi, đang còn nằm ở trong cái bị già, cái bị bệnh, cái bị chết và còn bị tái sinh! Nó còn nằm trong cái mơ ước mà không thành, đang còn nằm trong tình trạng chấp ngã, và chính những cái đó là sợi dây treo xuôi chúng ta và chúng ta khó thoát ra khỏi bởi vì nó rất là mịn và dễ chịu, và đôi khi mình còn thấy thích thú với nó nữa. Do đó, mà chúng ta bị sợi dây treo xuôi ở trong thế gian cột rất chặt.
Bây giờ đây, ngày Vu Lan trở về, hàng Phật tử chúng ta tha thiết mở sợi dây treo ngược cho bản thân chúng ta, cho cha mẹ chúng ta, cho tổ tiên, ông bà nội ngoại chúng ta, cho những người chúng ta yêu thương, và đồng thời chúng ta cũng nhìn bằng con mắt thật sâu, để tìm cách mở sợi dây treo xuôi nơi tự thân của mỗi chúng ta, treo xuôi cho cha mẹ chúng ta, treo xuôi cho ông bà nội ngoại chúng ta nữa. Bởi vì, bị treo ngược hay treo xuôi, cột ngược hay cột xuôi cũng đều là bị cột cả. Và mục đích tu học của chúng ta là để vượt ra khỏi tình trạng của những kẻ bị treo ngược và bị treo xuôi ở trong tam giới. Chúng ta tu tập là để cầu nguyện cho cha mẹ chúng ta, cho ông bà tổ tiên nội ngoại chúng ta không bị treo ngược, hay treo xuôi ở trong tam giới, như vậy mới là người con đích thực có hiếu, là người con đích thực có nghĩa, là người con đích thực có tình đối với cha mẹ của chúng ta, đó là người cháu hết lòng đối với ông bà, tổ tiên nội ngoại của chúng ta.
Con mắt Thánh và Sự cầu nguyện:
Đại chúng thường tụng kinh hay cầu nguyện, cho bảy đời cha mẹ của chúng ta. Tại sao mình không cầu nguyện cho tám đời, chín đời, mười đời, ba mươi đời mà cầu nguyện cho bảy đời. Trong Phật giáo, con số 7 có một ý nghĩa hết sức sâu sắc và quan trọng, đó là, nó làm mục tiêu cho sự cầu nguyện đối với cha mẹ của chúng ta. Sở dĩ gọi là 7 đời, vì con số 7 còn liên hệ đến sự chuyển hóa sinh tử.
Quý vị biết rằng, khi một vị xuất gia tu học mà chứng được Thánh quả Dự lưu, tức là hội nhập vào dòng dõi của bậc Thánh, thì vị đó tự biết rằng, mình còn bảy đời sinh tử, tức là mình phải còn liên hệ đến bảy đời cha mẹ của thế gian nữa. Hoặc khi một hàng cư sĩ tại gia mà có niềm tin sâu sắc đối với Tam Bảo và tu tập chứng được Thánh quả Dự lưu, thì quý vị ấy cũng thấy được rằng, mình còn bảy đời sinh tử, nghĩa là mình còn phải liên hệ đến bảy đời cha mẹ nữa. Còn mình không chịu tu hành chi hết, không có niềm tin gì nơi Tam Bảo hết, chỉ tu chơi chơi vậy thôi, tu sơ sơ vậy thôi, thì mình cứ mênh mang hoài trong vòng sinh tử. Còn vị cư sĩ mà có niềm tin thuần tịnh đối với Tam Bảo, vị đó có thể chứng được Thánh quả Dự lưu và vị đó thấy rằng, biên cương sinh tử của đời mình chỉ còn bảy lần nữa thôi và những vị xuất gia tu học, giới luật tinh chuyên giảm bớt tham, giảm bớt sân, loại trừ thân kiến thủ, loại trừ giới cấm thủ, loại trừ nghi ngờ ra khỏi tâm thức của mình, họ chứng được Thánh quả Dự lưu, vị đó biết rằng, mình chỉ còn bảy đời sinh tử ở trong Dục giới nữa mà thôi. Cho nên, vị ấy trở lại Dục giới, chết đi sống lại bảy lần, bảy lần có cha và mẹ. Nên, nói bảy đời cha mẹ là nói theo cách nhìn nhận về sự liên hệ đối với cha mẹ của một bậc Thánh Dự lưu.
Nếu mình không tu tập gì hết, thì đôi khi cha mẹ ở một bên mình, mà mình cũng không nhận biết, hoặc mình sống không có đạo lý của con người, đôi khi cha mẹ của mình sống một bên mình mà mình coi rẻ, xem thường, và có khi gây khổ đau cho cha mẹ của mình nữa. Hoặc là khi không có quyền lợi gì, thì ta thương cha, thương mẹ ta, nhưng khi có một chút quyền lợi liên hệ giữa cha mẹ và con cái, thì ta lại đấu tranh kịch liệt đối với cha mẹ ta và ta xem cha mẹ ta như kẻ thù, và cha mẹ có thể bị đấu tố bởi con cái.
Trái lại, khi một hàng cư sĩ hay một hàng xuất gia chứng được Thánh quả Dự lưu, vị đó biết rất rõ đời sống của họ liên hệ đến bảy đời cha mẹ, biết rất rõ sự tái sinh trong bảy đời, ai là cha mình, ai là mẹ mình. Cho nên, trong kinh Báo Ân, đức Phật dạy rằng, mình phải luôn luôn nghĩ đến công ơn của bảy đời cha mẹ.
Do đó, ngày Vu Lan về, hàng Phật tử chúng ta học theo hạnh của bậc Thánh, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, giữ gìn năm giới là chúng ta bắt đầu đi trên con đường Thánh, chúng ta bắt đầu thực tập hạnh của bậc Thánh, bắt đầu tập nhìn cuộc đời bằng con mắt Thánh, nên chúng ta làm điều gì, nói lời gì, nghĩ việc gì đều nghĩ đến sự liên hệ của chúng ta với cha mẹ chúng ta trong bảy đời.
Cha mẹ trong đôi mắt Bồ-tát:
Càng thực tập như vậy, chúng ta lại càng có cách nhìn sâu sắc hơn, không những chỉ là cách nhìn của một bậc Thánh mà còn là cách nhìn của một vị Bồ-tát nữa. Cách nhìn của một vị Bồ-tát, không những chỉ nhìn sự liên hệ giữa mình với cha mẹ bảy đời mà còn vô số đời. Bồ-tát thấy rằng mình đã có bao nhiêu thân là có bấy nhiêu đời cha mẹ. Nên, Bồ-tát không phải chỉ tu tập cho mình mà còn phải tu tập cho tất cả mọi người, tu tập là để đền ân và báo ân cho tất cả mọi người và mọi loài, tu tập không phải chỉ để đền ân cho cha mẹ một đời hay bảy đời mà vô số đời. Và, Bồ-tát không phải chỉ cầu nguyện cho bảy đời cha mẹ mà còn cầu nguyện cho cả pháp giới đa sanh phụ mẫu. Nên, Bồ-tát làm gì cũng nghĩ đến ân nghĩa của pháp giới đa sanh phụ mẫu.
Bởi vì, Bồ-tát thấy rõ thân thể của mình là thân thể được sinh ra từ pháp giới đa sanh phụ mẫu. Nên, thân thể này là thân thể của toàn thể vũ trụ, nó có mặt khắp mọi không gian, và mọi không gian đang có mặt trong thân thể này; nó có mặt khắp mọi thời gian và mọi thời gian đang có mặt khắp thân thể này. Cho nên, Bồ-tát làm gì là liền nghĩ đến pháp giới đa sanh phụ mẫu, vì Bồ-tát thấy rõ, thân của Bồ-tát không phải sinh ra một lần mà cả hằng tỉ tỉ lần, vô số lần và cũng không phải bỏ thân này một lần, mà Bồ-tát bỏ thân này vô số lần; Bồ-tát bỏ thân này không phải là hết, mà Bồ-tát bỏ thân này là để tiếp tục sống với thân khác, sống với hằng hà sa số kiếp thân, sống với vô cùng thân, với vô tận thân, với vô biên thân. Và khi mà một sự sống đã đi tới với cái vô cùng, vô tận, vô biên như vậy, thì chính cái vô cùng, vô tận, vô biên đó là cha, là mẹ của mọi sự sống.
Cho nên, mặt trời cũng có thể là cha, là mẹ của ta, trái đất cũng có thể là cha, là mẹ của ta. Đại dương, dòng sông cũng có thể là cha, là mẹ của ta, không gian cũng có thể là cha, là mẹ của ta, tâm thức cũng có thể là cha, là mẹ của ta. Bởi vì, sự hiện hữu của chúng ta đặt trên nền tảng của tâm thức và cái sắc thân này cũng đặt trên nền tảng của tâm thức, nên tâm thức là cha, là mẹ của ta mà tâm thức là vô cùng, vô tận, vô biên, siêu thời gian, siêu không gian, do đó khi ta làm cái gì, ta luôn luôn nghĩ đến pháp giới đa sanh phụ mẫu. Ta tu là tu cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta học là học cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta thở là thở cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta cười là cười cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta ăn là ăn cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta đi là đi cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta mặc áo là mặc cho pháp giới đa sanh phụ mẫu và có như thế, ta mới thấy rằng, ta là vô cùng, vô tận, vô biên và ta chỉ nghĩ như vậy thôi, là ta đã có hạnh phúc rất lớn. Trong đời sống, ta không có hạnh phúc, là vì tâm ta cạn cợt, trí ta thiển cận, tầm nhìn của ta không ra ngoài gan tất, nên sống giữa trời đất mênh mông mà ta vẫn nghèo cùng, đi giữa ánh sáng mà ta chẳng thấy được con đường, ngồi ở trong mâm cơm cam lồ mà lại bị chết đói, thật là xót xa.
Phật tính là Cha Mẹ:
Khi cha ta chết, cái đẹp nhất, cái cao quý và tinh anh nhất nơi cha ta được gọi là Thần hồn, khi mẹ ta chết, cái đẹp nhất, cái cao quý và tinh anh nhất nơi mẹ ta được gọi là Linh hồn. Thần hồn, nghĩa là cha ta khi xả bỏ cái thân này, là Người trở về hòa nhập với cái hồn của trời và hồn ấy, vận chuyển khắp cùng trong vũ trụ, và nó chuyển vận rất nhanh, cho nên gọi là Thần hồn. Và vì nó cũng có tính cách nhanh chóng, linh hoạt, phi phàm, nên gọi là Thần hồn. Linh hồn, nghĩa là khi mẹ ta bỏ ta đi xa, không sống với ta nữa, thì mẹ ta trở về hội nhập với cái Linh khí của đất, trở về với lòng đất và hòa nhập với cái Linh khí của đất, nên gọi là Linh hồn. Bởi vậy, người xưa nói rằng, “Cha là trời, Mẹ là đất”. Tinh anh của trời là Thần khí, tinh anh của đất là Linh khí. Thần khí và Linh khí gặp nhau tạo ra Sinh khí và khiến cho muôn vật khởi sinh, và khiến cho chúng ta biết đi, đứng, nói, cười,... Nên, khi mẹ ta bỏ ta ra đi là mẹ ta trở về với Linh khí của đất, khi cha ta bỏ ta ra đi, là cha ta trở về lại với cái Thần khí của trời. Thần khí hay Linh khí của trời đất đều là duyên khởi không có tự tính, và từ nơi pháp tính không có tự tính của Thần khí và Linh khí ấy, mà ta sinh khởi, nên pháp tính là cha mẹ của muôn loài, của vạn hữu. Và Thần khí, Linh khí ấy ở nơi con người, ở nơi chúng sanh, thì gọi là Linh giác hay Phật tính, nên Linh giác hay Phật tính là cha mẹ của hết thảy chúng sanh. Vì thế mà trong các kinh điển Phật giáo Đại thừa, Đức Phật dạy, hết thảy chúng sanh đều có Phật tính là vậy. Nên, trong tất cả chúng ta đều có chất liệu cao cả, quý báu và linh thiêng đó. Phật tính là chất liệu quý báu có sẵn ở trong mỗi chúng ta, nếu chúng ta sống với tâm ý ích kỷ, hẹp hòi, tầm thường, thì Thần khí và Linh khí hay Phật tính ở nơi chúng ta sẽ bị khô kiệt và không thể lưu lộ. Nên, Đức Phật dạy: khi một người phát tâm nguyện rộng lớn, thì người đó sẽ có được phước đức vô biên.
Hãy quên mình trong sự cầu nguyện:
Nếu có một người cúng dường Phật một bồng cam và thắp hương lên bàn thờ của Ngài, cầu nguyện như thế này: “Dạ, xin Ngài gia hộ cho con học giỏi, lớn lên gặp được ông chồng dễ thương, gặp được bà vợ dễ thương, cho con lớn lên làm ông giám đốc này, ông giám đốc khác…”, cầu nguyện như thế cũng được, nhưng mà phước ít. Lại cũng có một người cúng dường một bồng cam lên Phật và thắp hương lên bàn thờ của Ngài, bằng cách chắp tay lại, theo dõi hơi thở thật sâu, tâm từ từ yên lắng, vị ấy khấn nguyện như sau: Kính lạy chư Phật mười phương, kính lạy Đức Phật Thích-ca Mâu Ni, con dâng tặng phẩm thanh tịnh này lên Ngài, để con cầu nguyện cho cha mẹ con, anh chị em con hiện tại và nhiều đời cũng như hết thảy pháp giới chúng sanh có nhiều may mắn, có nhiều hạnh phúc và an lạc. Chỉ như thế thôi, là ta thành tựu phước đức rất nhiều. Vì sao ? Vì ta ý thức rất rõ là trong cuộc sống, ta không thể tách rời ta ra khỏi cha mẹ ta và muôn loài, nên ta làm gì thì hãy vì sự hạnh phúc của tất cả mà làm, thì việc làm của ta có một ý nghĩa rất lớn và tự nó sẽ thành tựu những phước đức rất lớn. Nhưng, nếu ta làm bất cứ cái gì cũng chỉ vì mình thôi, thì phước đức của ta càng ngày càng teo lại và ta sẽ gặp phải nhiều chuyện bất như ý xẩy ra đối với ta, ta sẽ sống trong cô đơn và sẽ chết ở trong sự sầu muộn. Nên, ta có thể quên mình đi và cầu nguyện cho cha mẹ, cho tổ tiên, thì phước đức của ta tự lớn ra, bởi vì ta cầu cho cha ta, mẹ ta, tổ tiên ta là trong đó có ta rồi, nên ta không cần phải cầu nguyện cho ta nữa. Vì vậy, khi ta thắp hương lên bàn Phật, ta khấn nguyện: “Con dâng hương, hoa, đèn, cam để cúng dường Ngài, là con cầu nguyện cho cha mẹ con, tổ tiên ông bà nội ngoại của con hiện tại, biết tu tập, biết bỏ ác làm lành, biết thương người, cứu vật, sớm phát Bồ-đề tâm đêm ngày thường sống ở trong đạo giác ngộ”. Ta dâng hương, đèn, hoa, trái cây, bát nước trong lên bàn thờ Phật với tâm thành khẩn và thanh tịnh mà khấn nguyện như vậy thì phước đức của tự thân rất là lớn. Và phước đức của tự thân ta lớn hơn nữa, nếu ta đem tâm thanh tịnh, tâm rộng lớn, tâm có nội dung của tuệ giác để cúng dường chư Phật và cầu nguyện cho cha mẹ của ta nhiều đời, cho thân bằng nhiều kiếp và cho cả pháp giới đa sanh phụ mẫu của ta, thì phước đức của ta lớn gấp trăm ngàn lần so với phước đức mà mình chỉ cầu nguyện cho cha mẹ của ta trong đời hiện tại.
Và nếu ta thông minh hơn nữa, thì khi ta dâng những tặng phẩm lên cúng dường chư Phật, ta khấn nguyện như sau:
“Kính lạy chư Phật, Bồ-tát và các bậc Thánh hiền khắp mười phương. Con xin dâng tặng phẩm này để cầu nguyện cho toàn thể loài người biết thương yêu nhau và cùng nhau sống trong hạnh phúc, an lạc”. Ta biết dâng tặng phẩm cúng dường và biết dâng lời cầu nguyện như thế, thì phước báo của ta sẽ lớn hơn nữa. Phước báo của ta là phước báo loài người, cho nên ta đi đâu cũng được loài người trân quý. Ta đâu có phải sống cho riêng ta? Ta sống cho tất cả loài người, cho nên ta đi đâu, ta cũng được loài người trân quý hết. Người sống với tâm hồn như vậy là người thông minh.
Nhưng, người đại thông minh, thì khi dâng các tặng phẩm cúng dường lên chư Phật, Bồ-tát, các bậc Thánh hiền, vị ấy sẽ thở sâu, giữ tâm thanh tịnh, thích ứng với tâm có tuệ giác lớn và khấn nguyện như sau:
“Kính lạy chư Phật, Bồ-tát, cùng Thánh hiền khắp cả mười phương, con dâng hương hoa, nước, đèn này lên cúng dường các Ngài và xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sanh, tất cả đều được an lạc, đều được hạnh phúc, đều sớm thành tựu Tuệ giác Vô thượng”.
Ta cúng dường và cầu nguyện với tâm như vậy, phước đức của ta, nó dàn trải ra cả toàn thể vũ trụ, cho nên ta sống ở đâu và đi đến đâu ta cũng có an lạc và hạnh phúc, bởi vì trong ta không còn có cái riêng tư nữa. Toàn thể vũ trụ đều có mặt trong ta và ta đã hòa nhập trong toàn thể vũ trụ, trong pháp giới chúng sanh.
Đóa hoa tuyệt vời và thơm mãi:
Ta biết tu học là ta rất dễ thương, ta là đóa hoa tuyệt vời. Bởi vì, đóa hoa ấy, là đóa hoa kết tinh Thần khí của cha và Linh khí của mẹ và là hồn sống của trời, hồn sống của đất đang có mặt trong ta, nên sự có mặt của ta trong trời đất là một sự có mặt hết sức mầu nhiệm. Nếu ta không biết tu học, thì cuộc sống của ta hết sức oan uổng và vô nghĩa.
Thưa Đại chúng,
Sáng nay, quý vị cài hoa hồng tôi thấy cũng vui và quý vị cài hoa trắng tôi thấy cũng vui. Và sáng hôm nay có mấy em Phật tử đem hoa đến cài cho tôi và hỏi tôi rằng, thầy cài hoa hồng hay hoa trắng. Tôi nói: “Hoa hồng cũng được, hoa trắng cũng được”. Mẹ cũng còn, mà mẹ cũng mất, cha cũng mất mà cha cũng còn. Nên, quý vị muốn cài loại hoa nào lên áo tôi cũng được.
Nhìn vào một đóa hoa hồng hay vào một đóa hoa trắng, ta thấy rằng, trong đóa hoa hồng hay trong đóa hoa trắng đó, có cha của mình, có mẹ của mình, không phải một đời mà bảy đời, không phải bảy đời mà vô số đời.
Về phương diện thời gian, ta nhìn sâu vào đóa hoa hồng đó là ta có thể thấy cha và mẹ của ta nhiều đời ở trong đóa hoa ấy. Và trên phương diện không gian, ta nhìn sâu vào một đóa hoa hồng, ta sẽ thấy cha mẹ ta đang có mặt ở nơi đóa hoa hồng ấy, vì là mọi tinh hoa của đất trời nó đang hòa quyện vào nơi đóa hoa hồng hay nơi đóa hoa trắng mà ta đang được cài ấy. Và ta nhìn vào bản thân của ta, ta nhìn thấy cái Thần khí trong con người của ta là cha, cái Linh khí trong con người của ta là mẹ. Cho nên, ta tu tập chánh niệm, tỉnh giác là ta rất dễ nhận ra cha mẹ của ta và ta có thể tiếp xúc với cha mẹ ta không phải một đời mà rất nhiều đời.
Ta hãy nhìn và tiếp nhận cho được Thần khí trong con người của ta, là ta nhận ra cha mẹ của ta. Ta hãy nhìn sâu để tiếp nhận được Thần khí trong ta qua từng tế bào, qua từng mạch máu, qua từng buồng tim, qua từng thớ thịt, qua từng lỗ chân lông, là ta sẽ tiếp xúc được với cha mẹ của ta trong từng giây phút của sự sống. Cho nên, khi ta cài một đóa hoa hồng hay một đóa hoa trắng, là ta phải thở sâu và nhìn sâu để tiếp xúc cho được cái Thần khí và cái Linh khí ở nơi một đóa hoa, và ngay nơi đóa hoa đó, ta cũng có thể tiếp xúc được với Thần khí và Linh khí của cha mẹ ta ở trong ta và ở trong đất trời, không phải một đời mà nhiều đời, không phải một kiếp mà rất nhiều kiếp. Nên, dù xác thân mẹ tôi đã mất, nhưng trong bài thơ “Tình hoa trắng”, tôi thấy mẹ tôi vẫn còn, còn một cách tươi vui, nguyên vẹn, cùng khắp, tuyệt vời và thiêng liêng:
Áo tôi vàng, em cài lên hoa trắng
Màu trinh nguyên màu mẹ đã qua đời
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì trong hoa tôi thấy mẹ tôi cười.
Áo tôi vàng em cài tình hoa trắng
Tình trinh nguyên, tình của mẹ ngày xưa.
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì là hoa ngày trước mẹ tôi yêu.
Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Giữa mùa trăng hiếu hạnh nhớ về nguồn
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì mùa trăng, mùa mẹ bước lên ngôi.
Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Màu trắng thơm màu mẹ đẹp tuyệt vời.
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì trong hoa tôi thấy mẹ ngàn nơi.
Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Đóa hoa xưa ngày mẹ xới đất trồng;
Giữa những ngày mưa chang và nắng quái
Giữa biển cồn đời mẹ hóa thành bông.
Đời của mẹ đã hóa thành hoa trắng
Hoa thơm tươi hoa thanh bạch mẹ ơi!
Tình của mẹ là tình bông hoa trắng
Tình thiêng liêng lồng lộng giữa đất trời.
Mỉm cười với Mẹ và Cha:
Nếu mình có chánh niệm, tỉnh giác, và tuệ giác, thì mình đang mỉm cười với mẹ mình và mình thấy mẹ đang mỉm cười với mình. Mình mỉm cười với mẹ mình là vì mình đang thấy ở mẹ có cái gì thiêng liêng nhất, đẹp nhất mà mình đang tiếp xúc được. Và mẹ mình đang mỉm cười với mình, vì mẹ mình biết mình đang tiếp tục cái thiêng liêng của mẹ, mình đang tiếp tục cái Linh khí của mẹ và mẹ đã sinh ra mình là để mình tiếp tục cái Linh khí, cái thiêng liêng ấy của mẹ, cho nên mẹ vui sướng và cười với mình và mình cũng biết rằng, mình đang tiếp tục cái Linh khí thiêng liêng của mẹ, cho nên, mình cười với mẹ. Lại nữa, mình thấy mẹ luôn luôn có mặt trong mình, và mình luôn luôn có mặt trong mẹ, mình luôn luôn thấy được như vậy là mình hạnh phúc biết bao !
Do đó, mẹ chưa một phút giây nào rời khỏi mình và mình chưa một phút giây nào rời khỏi mẹ. Tại sao mình nói là mình mất mẹ? Thực ra, mình không bao giờ là người thật sự mất mẹ, nếu có chăng chỉ là mẹ thay đổi thân xác... còn cái tinh hoa của mẹ vẫn còn mãi trong ta và còn mãi giữa đất trời.
Cho nên,
Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Màu trắng thơm màu mẹ đẹp tuyệt vời
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì trong hoa tôi thấy mẹ ngàn nơi.
...
Tình của mẹ là tình bông hoa trắng,
Tình thiêng liêng lồng lộng giữa đất trời.
Mẹ có mặt khắp mọi nơi, mẹ là Linh khí của mọi loài, mọi vật. Cha là Thần khí của mọi loài, mọi vật. Vì vậy, khi ta nhìn vào mọi loài, mọi vật, ta đều nhìn thấy mẹ ta trong đó, cha ta trong đó và ta cũng hiện hữu ở trong đó.
Vì mình thấy mẹ có mặt khắp cả ngàn nơi, do đó mình làm cái gì, mình nói cái gì, mình nghĩ cái gì cũng nghĩ đến mẹ, vì mẹ của mình đang có mặt khắp cả ngàn nơi. Và là Phật tử thì mình phải thông minh, thông minh một cách đặc biệt, nên khi mình tụng kinh, mình lạy Phật, mình ngồi thiền, mình ăn chay, mình bố thí, mình cúng dường, mình cắm bông hoa lên cúng Phật, cúng ông bà, tổ tiên của mình là tất cả mình đều hồi hướng về Phật đạo, để mình có cách nhìn và cách sống của Phật đạo và mình cũng mong cho bất cứ ai cũng đều có cách nhìn và cách sống ấy. Cho nên, mình làm cái gì mình đều nói :
“Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
đều trọn thành Phật đạo”.
Phải thông minh lắm mình mới nguyện như vậy và mới làm như vậy, nếu không thông minh, thì mình làm cái gì cũng nghĩ về cho mình. Một việc làm có nội dung của sự thông minh là ta đều hồi hướng về cho tất cả mọi người, cho pháp giới chúng sanh, bởi vì tất cả chúng sanh trong pháp giới đều có mẹ mình ở trong đó, đều có cha mình ở trong đó, đều có mình ở trong đó và đều có ông bà tổ tiên của mình ở trong đó, nên ta có làm được điều gì tốt đẹp là ta đều xin hồi hướng về cho tất cả mọi người và cho tất cả chúng sanh, làm với tâm hồn như vậy là ta đang mỉm cười với mẹ và cha của chúng ta.
Tôi vẫn còn:
Tôi còn tu được cho đến ngày nay là nhờ mẹ tôi, nếu mẹ tôi mà vì một chút tình cảm tầm thường như một người nữ nhi khác, thì bây giờ tôi không còn làm thầy tu nữa rồi. Tôi đi tu lúc mười hai tuổi ở chùa Phước Duyên, Thầy của tôi đã tìm đủ mọi cách để huấn luyện tôi trở thành một người xuất gia giỏi, nên đã nhiều lần Thầy tôi đã dùng những biện pháp mạnh đối với tôi để buộc tôi phải chăm học. Ở chùa không bao lâu tôi đã thuộc lòng hai thời công phu và bốn cuốn luật bằng chữ Hán. Vào mùa Đông ở Huế, trời lạnh lắm, mới hai giờ sáng, Thầy tôi đã thức tôi dậy học kinh luật. Là một chú tiểu rất nhỏ ở chùa, tôi cũng vừa thích tu mà cũng vừa thích ngủ. Lại nữa, tu cũng ưa, mà chơi cũng ưa; đàng hoàng cũng ưa mà nghịch ngợm cũng ưa, cho nên cái kỳ cục của tuổi trẻ là ở chỗ đó. Ưa thì ưa cho mình đàng hoàng, mà cái hoang nghịch thì mình cũng thích chơi; ưa cho mình thông minh mà cũng nhác học, cho nên Thầy tôi rất khổ công huấn luyện tôi. Có khi Thầy phải dùng những biện pháp mạnh.
Tôi tu được một năm, sau đó là tôi xin Thầy tôi cho tôi đi học phổ thông, vì lúc đó tôi mới học xong tiểu học thôi, tôi nghĩ rằng, nếu mình không tiếp tục học thêm phổ thông, thì trình độ kiến thức của mình yếu, sau này không có cơ hội để phát triển về mặt trí thức. Tôi đã nhiều lần xin Thầy, nhưng Thầy không cho phép, lại còn dạy tôi rằng: “Đi tu thì học việc tu thôi”.
Không được Thầy cho phép, tôi buồn Thầy, nên đã tìm cách bỏ chùa, bỏ Thầy để về nhà. Khi về nhà, mẹ tôi thấy tôi, mẹ tôi rất mừng; mẹ tôi hỏi han ân cần đủ thứ, dọn cơm cho tôi ăn, pha nước cho tôi uống, hỏi chuyện này, chuyện nọ cả đêm, rồi bỏ mùng cho tôi ngủ. Sáng ngày, mẹ tôi thức tôi dậy, dọn cơm nước cho tôi ăn xong và bảo tôi lên chùa cả Thầy trông, tôi thưa với mẹ tôi rằng, con không lên chùa nữa! Mẹ tôi hỏi “Tại sao chú không lên ?”, tôi thưa, “Vì con xin Thầy đi học ngoại điển, mà Thầy không cho, nên con không có lên nữa. Con nghĩ, tu mà trình độ kiến thức bên ngoài yếu, thì tu không có giỏi, nên con về nhà, con học cho xong Tú tài toàn phần đã, rồi con đi tu cũng được”. Cha tôi bảo: “Thôi, rứa cũng được”, Cha tôi không có ý kiến gì thêm nữa ! Khi ấy tôi thấy cha tôi đứng về phía mình, nên tôi rất thương cha. Còn mẹ tôi khi nghe tôi thưa như vậy, liền bặm mặt lại và nói: “Không được, chú phải lên!”. Tôi không chịu lên, bấy giờ mẹ tôi phải cho tôi ăn roi. Mẹ tôi bắt tôi nằm xuống đánh từng roi và nói rằng: “Cái cắc cớ là tại chú, là tại vì răng, mà chú xin ôn mụ tôi đi tu, lên trên chùa là Thầy dạy cho chú tu, chú không chịu tu, lại ưa đi học chuyện bên ngoài, cắc cớ là tại chú chứ đâu phải tại Thầy”, nói với tôi như vậy xong, là mẹ tôi đánh vào tôi một roi, và tiếp tục dạy tôi cứ bảy phút là nhịp một roi, cứ như vậy gần hai tiếng đồng hồ, và lời sau cùng mẹ tôi nói: “Bây giờ mẹ muốn con đi tu và con là con của Thầy, của Phật, chứ không còn là con của ôông mụ tui nữa”. Mẹ tôi nói như vậy với tôi xong, lại liền nói với cha tôi rằng: “Ôông phải đem điệu lên lạy Thầy trên chùa, để xin sám hối cho điệu được tiếp tục tu lại”, và thưa với Thầy rằng: “Từ nay về sau điệu là con của Thầy, của Phật chứ không phải là con của mình nữa”. Nghe mẹ tôi nói dứt khoát, tôi nghĩ như thế là đã bị tuyệt lộ rồi, rào đường rồi, cho nên tôi phải theo cha tôi để trở lại chùa. Tôi lạy mẹ tôi hai lạy và theo cha tôi lên chùa. Trên đường cùng với cha trở về lại chùa, trong lòng tôi nghĩ, mẹ mình quá nghiêm khắc không có hiền và dễ thương như cha mình. Lên lại chùa, cha tôi và tôi đều lạy Thầy và xin sám hối về những suy nghĩ vụng dại của tôi, Thầy hoan hỷ, xem như không có chuyện gì xẩy ra. Tôi tiếp tục tu học ngày càng khá lên, không hề nghĩ gì đến việc phải đi học ngoại điển nữa. Sau một thời gian, Thầy tôi cho tôi thọ Sa di và cũng cho tôi đi học thêm ngoại điển nữa.
Khi tôi thọ Sa di rồi, Thầy cho về thăm nhà, mẹ tôi rất quý trọng; và khi tôi làm Thầy, mỗi lúc về nhà, mẹ tôi lại mặc áo tràng ra cổng đón và lạy tôi; mỗi khi mẹ tôi nói gì với tôi cũng: “Bạch thầy - con”, chứ không xưng là mẹ.
Có lần mẹ tôi đau, nằm trên giường bệnh, tôi về thăm, tường trong nhà lâu ngày thấm nước nó loang lỗ ra, rêu mọc lên. Mẹ tôi nói: “Thầy ơi! con đau, con niệm Phật, nhưng con niệm Phật cho thầy, con cầu nguyện cho thầy tu tập thành đạt được cái cao quý của Phật, của Tổ mà thầy đã tự nguyện đi theo, cho nên thầy có thấy không, trong những bức vách mà nó mọc rêu, trong bức tường rêu ấy thấy toàn cả tượng Quan Âm thôi à”. Tức là mẹ tôi cứ ngồi như thế mà niệm Phật và mẹ tôi cứ nghĩ là cầu nguyện cho tôi tu tập thành tựu, nên rêu mọc lên, mà mẹ tôi nghĩ là tượng Quan Âm, cho nên tôi biết mẹ tôi rất thương tôi, quý tôi lắm, lúc nào cũng muốn cho tôi tu tập thành đạt, bởi vậy mà việc mẹ tôi cho tôi ăn roi ngày xưa là một sự hy sinh tình cảm nhỏ nhặt để đạt tới một tình cảm rộng lớn, bấy giờ mẹ tôi đã can đảm đánh tôi từng roi, mỗi roi chạm vào thân thể tôi là như mỗi roi chạm vào thân thể mẹ và mẹ tôi đứt từng khúc ruột vậy.
Cho nên, một lần tụng Kinh, ngồi thiền hay làm bất cứ việc gì, tôi cũng nghĩ đến mẹ và tôi biết chắc chắn rằng, mẹ tôi bây giờ ở thế giới nào, thì cũng nhìn tôi mỉm cười và tôi thấy mẹ tôi đang có mặt một cách đích thực trong tôi. Tôi nhớ rất rõ, ngày tôi học ở Sài gòn, mẹ tôi đã rang từng hũ ngũ cốc bảo chị cả của tôi đi Sài gòn đem vào cho tôi, tôi rất là hạnh phúc khi nhận được quà từ mẹ. Tôi muốn mẹ tôi có nhiều phước đức, nên tôi không sử dụng một mình, tôi đem chia sẻ cho những anh em Tăng sinh chung quanh của tôi để hồi hướng phước đức cho mẹ tôi. Nên, nghĩ về mẹ là nghĩ về một bông hoa đẹp nhất trên đời, nghĩ về mẹ là nghĩ về một dòng nước mát trong và ngọt ngào nhất. Không có tình thương của mẹ, ta không bao giờ lớn khôn; không có sự hy sinh của mẹ là ta không bao giờ trưởng thành. Ngày nay, tôi vẫn còn làm thầy tu, nhân duyên hỗ trợ lớn nhất là mẹ.
Nhẹ như cánh hạc:
Rồi tối hai mươi mốt, tháng tám, năm Giáp Tý (năm 1984), tôi được chú tôi báo tin là mẹ tôi đã qua đời, tôi rất ngạc nhiên, bởi vì chiều ngày hai mươi, tháng tám, năm Giáp tý (1984), cô Như Huy em gái của tôi vào Sài Gòn thăm tôi, tôi hỏi “Mẹ khỏe không, mà em đi đó ?”. Cô trả lời: “Em có về thăm mẹ, mẹ khỏe lắm”. Được tin mẹ mất, tôi vội nhảy xe bus đi Huế để về nhà lo tang mẹ. Khi về đến nhà, cả nhà thấy tôi ai cũng oà lên khóc, tôi đứng lặng yên bám sát hơi thở chốc lát, sự xúc động qua đi, cha tôi nói: “Thầy về rồi, tôi khỏe, mọi chuyện giao cho thầy hết”. Tôi hỏi vì sao mẹ mất nhanh như vậy? Cha tôi kể: Chiều 21 mẹ tôi đi kỵ ngoài bà cô của tôi, 4 giờ chiều đang còn sắp dọn, xong 6 giờ về nhà. Về đến nhà, hai ông bà lấy ghế phô-tơi ra nằm trước sân, chị Cả gởi cam về hai ông bà ăn xong, khoảng 8 giờ thì sương xuống, bà mới kêu “Ôông ơi! dậy đi vào nhà cả sương, kẻo sáng mai đau chừ.” Ôông lên nhà trên, bà xuống nhà dưới, cỡ khoảng 9 giờ bà bưng đèn lên nhà, kêu ôông, “Ôông ra vườn hái cho tôi chín ngọn lá trường sanh”, cha tôi ra hái xong, rửa sạch, đem vào đưa cho bà và bà đang ngồi với tư thế kiết già, để nhai, bà đang nhai, cha tôi ra đóng cửa ngõ, khi đang đóng cửa ngõ, cha tôi nghe trong nhà bà niệm Phật ba tiếng thật to, như tiếng niệm Phật trong lúc hô canh ở chùa vậy, cha tôi đóng cửa xong đi vào, thấy bà nằm xuống và đã đi xa, thấy vậy cha tôi khóc, rồi kêu con cháu ở nhà xung quanh đến, các con cháu nói mới nghe bác, thím niệm Phật đó mà! Mẹ tôi mất đi một cách giản dị, nhẹ nhàng, không có chi đau đớn.
Tôi biết, mẹ tôi rất nhẹ nghiệp, mẹ tôi khi hướng tâm về Phật pháp rồi, thì một con gà mẹ tôi cũng không nuôi, một cái lợi nhuận nhỏ, mẹ tôi cũng không nghĩ và trong nhà khi nào cũng dự trữ lương thực khô hết, là vì để dành khi chư Tăng đi hoằng pháp, bất kỳ vị thầy nào về vùng này cũng ghé thăm gia đình tôi, dù là một, hai giờ giờ khuya, thì mẹ tôi cũng có thức ăn để hầu hạ chúng Tăng và mẹ tôi hết sức kính trọng chúng Tăng. Cho nên, niềm tin của bà đối với Tam Bảo là hết sức sâu sắc. Mẹ tôi mồ côi mẹ rất sớm, được ông ngoại tôi chăm sóc hết sức kỹ lưỡng. Ông ngoại tôi không những là một Phật tử thuần thành, mà còn là một nhà Nho, một thầy thuốc nổi tiếng. Ông ngoại tôi sống thủy chung với Bà ngoại tôi, dù Bà ngoại tôi mất sớm, Ông ngoại tôi sinh ra hai cậu, và mẹ tôi là con gái út.
Cho nên, khi nghĩ đến mẹ, nghĩ đến cha, nghĩ đến tổ tiên, nội ngoại thì chúng tôi biết ơn rất sâu sắc, vì chúng tôi có mặt hôm nay là của cha, của mẹ, của ông bà nội, ông Bà ngoại, của trời đất, của tất cả, vì vậy khi tôi thắp hương, tôi không thắp hương cho cá nhân tôi mà tôi thắp hương với một tấm lòng cho tất cả; và hôm nay tôi tu không phải là tôi tu cho mình tôi mà tu với một tấm lòng là cho tất cả.
Thưa đại chúng! Hôm nay, nhân mùa Vu lan, khi làm việc gì, chúng ta cũng nghĩ đến ân nghĩa của tất cả, và chúng ta phải nỗ lực tu tập, thân không làm các điều ác, miệng không nói những lời ác, ý không nghĩ đến những điều ác, để báo đáp ân cha mẹ hiện tiền, cha mẹ quá khứ, và cha mẹ của chúng ta đang có mặt cùng khắp cả pháp giới, ta thực tập được như vậy, thì ta sẽ thành tựu phước đức một cách toàn vẹn.
Bây giờ, trong mùa Vu Lan, chúng ta có bao nhiêu phước đức do công phu tu tập và hiếu hạnh, thì chúng ta cùng nhau chắp tay xin hồi hướng cho tất cả:
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.{
|