Soi gương không thấy bóng mình
Hạnh Chi
Phòng mờ tối. Chỉ có ánh trăng xanh chiếu qua khung cửa sổ, vẽ những vệt sáng trên nền gạch đá hoa. Hương thơm nhẹ, thoảng từ chậu lan tím trên mặt bàn, như quyện vào trăng. Chắc thế! Vì hành giả đang tọa thiền trước bàn Phật cũng cảm thấy trăng thơm nồng nguyệt quế.
Hành giả tọa thiền đã lâu. Hình như khá lâu, từ lúc nắng chiều chưa tắt. Ngồi như thế để tìm gì? Hành giả há chẳng từng nghe giai thoại khi đức Thế Tôn truyền ngài Xá-lợi-phất đi thăm bệnh trưởng giả Duy-ma-cật. Xá-lợi-phất, vị đại trí, trong mười đại đệ tử của đức Phật, đã từ chối mà thưa rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, con không đủ khả năng đi thăm bệnh ông ấy. Vì có lần con đang ngồi tĩnh niệm trong rừng, Duy-ma-cật đi ngang, dừng lại, bảo con rằng, bất tất phải ngồi như vậy mới là tĩnh niệm. Không hiện thân và ý ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu mà không xả Đạo Pháp, ấy mới là tĩnh tọa. Không bị dao động trong các kiến chấp mà tu hành ba mươi bảy phẩm, ấy mới là tĩnh tọa. Không đoạn trừ phiền não mà nhập Niết-bàn, ấy mới là tĩnh tọa…”. (*)
Khi nghe những lời nhắc nhở ấy, không biết ngài Xá-lợi-phất nghĩ sao, nhưng với hành giả thì đó là những tiếng vọng chát chúa trong nhiều đêm thanh vắng ngồi tĩnh lặng.
Làm sao để không hiện thân và ý ở trong ba cõi? Làm sao hiện các oai nghi mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định? Hiện thân làm các việc phàm phu mà không xả Đạo pháp, liệu có dễ? Không bị dao động trong các kiến chấp mà tu hành ba mươi bảy phẩm thì chắc chắn phải gian nan lắm rồi! Nhưng không đoạn trừ phiền não mà nhập Niết-bàn thì hành giả chẳng thể nào tưởng tượng nổi!
Ấy thế mà những điều bất khả tư nghì đó lại chỉ để diễn tả một điều vô cùng đơn sơ, vô cùng nhẹ nhàng là Tĩnh tọa, là Ngồi yên!
Ngồi yên?
Vâng, hành giả đã ngồi yên. Cái thân tứ đại do đất nước gió lửa hợp thành đã ngồi yên. Cái thân có hình tướng đã ngồi yên, nhưng cái tâm, cái ý vô hình vô tướng lại quá ư ương ngạnh. Chúng bay nhảy, dong chơi, nghịch ngợm trên những vết thương chưa mọc da non. Này là lời dối trá, kia là sự phũ phàng! Này là mũi tên tẩm độc bọc nhung, kia là sự bội bạc lạnh như băng đá! Này là lòng ác độc, kia là tiếng thị phi…Thôi thì đủ cả! Quay cuồng trong đời ác ngũ trược này, có cầu cứu ngài Huệ Năng thì con đường nhận ra: “Gốc vốn chẳng một vật, lấy chỗ đâu cho người phủi bụi” còn mịt mờ vạn nẻo; nói chi mon men tới viên kim cương “Ưng vô sở trú, nhi sanh kỳ tâm” không dựa vào ai, không nương tựa gì thì lòng mình mới nguyên vẹn, vững vàng!
Thế nên, hành giả đã từng ngồi yên như núi mà nước mắt vẫn âm thầm chảy. Trong bóng đêm, ánh trăng và hương Lan chẳng đủ sức an ủi nỗi tuyệt vọng của kẻ soi gương chỉ thấy những bóng hình dị dạng. Đó là những gương mặt kẻ lạ, khi giận dữ, lúc nhẫn nhục, khi cho không, lúc đòi trả, khi tha thứ, lúc uất hờn, khi Bồ-tát, lúc phàm phu…
Thường khi vạt áo tràng đầm đìa nước mắt, hành giả lại nghe mình thổn thức, hướng về Thầy “Thầy ơi, cứu con!” Và từ nơi xa, rất xa, theo hương bay ngược gió, Thầy liền đến ngay. Hành giả lập tức cảm nhận được như thế. Rồi giọng xứ Quảng, pha chút sông Hồng, chút sông Hương vẳng lên:
“Này con, dù con chọn phương thức nào cũng cần có căn duyên thích hợp, và Văn Tư Tu là hành trang ắt có và đủ, để lên đường. Này con, tu là làm cho phát triển trí tuệ. Chỉ có tuệ mới thấy được Thánh-đế, và có thấy được Thánh-đế, mới giải thoát. Thân con đã ngồi yên, tạm tốt rồi. Nào, bây giờ hãy cùng Thầy, tập trung tâm ý, nghe lời Phật giảng, suy nghĩ về lời Phật dạy, quán tưởng các pháp mà Phật truyền. Như mặt trăng bất động giữa hư không nhưng ánh sáng của nó tỏa chiếu cùng khắp ao hồ, nơi nào nước trong, tưởng như trăng tỏ, nơi nào nước đục, tưởng như trăng mờ! Chẳng khác chi mặt trời không vì kẻ đui mù mà không chiếu sáng. Cũng vậy, Pháp thân Phật bất động, tịch tĩnh, uyên nguyên như thị, nhưng sẽ tùy cơ cảm mà hiện biến. Tịnh độ hay uế độ đều từ phương-tiện-trí của Phật mà thôi. Ráng đi con. Tự lực không tỉnh thức thì tha lực cũng không thể giúp đâu!”
Cứ như thế, hành giả bớt thổn thức, nghe lời Thầy chỉ dẫn bàng bạc trong hư không.
Tại sao mỗi khi con gọi Thầy, lại nghe thấy Thầy ngay? À, vì Thầy luôn ở bên chúng sinh. Tâm Thầy là tâm Quán Âm, nghe tiếng kêu thương liền thị hiện. Có lần một học giả bùi ngùi cảm động nói rằng, trong thời mạt pháp này, nếu có ai thành Phật thì người đó chính là Thầy. Tất nhiên, đây là sự thành tâm tin tưởng của riêng vị học giả, nhưng nghe được lời đó, kẻ cầu đạo còn sơ cơ như con, tự hỏi “Phật là ai? Có phải là Người đã chứng bất động tâm giải thoát mà qua sự dẫn giải tuyệt kỹ trong kinh Pháp Hoa, đã vì lòng thương tưởng chúng sanh, Ngài khai tam hiển nhất, dùng phương tiện mà dạy từ thấp tới cao, từ ngu tới trí, chẳng từ chối một ai cầu đến ngài.”
Phật gần gũi và đơn giản như thế. Đừng thần thánh hóa đức Phật để rồi quẩn quanh hoài nghi, là lời Phật dạy chỉ có Phật thành tựu được; đường Phật đi, chỉ có Phật mới tới đích. Từ khi tìm ra cội nguồn của khổ đau, đức Phật đã phát đại nguyện ở lại Ta-bà cứu khổ, còn một hơi thở là còn làm lợi ích chúng sinh. Những đệ tử theo Ngài cũng nguyện như thế, hành như thế, đi như thế.
Thầy ơi, nhìn chặng đường Thầy đã và đang đi, con thấy rõ bước chân Thầy từng in dấu 1250 bước chân xưa. Thầy thản nhiên vào tử lộ để tìm sinh lộ cho kẻ khác. Thầy nói thay cho người không còn quyền để nói. Thầy lặng thinh khi bùn đất tỵ hiềm ném tới. Thầy mỉm cười trước những oan khiên. Thầy tha thứ cho những lọc lừa phản bội. Thầy cho kẻ đói những hạt cơm vơi trong bình bát. Thầy thức trắng từng đêm khai mở trí tuệ cho kẻ vô minh… Thầy làm những gì đức Phật bảo là “cần làm, đáng làm”, nên con đã nhìn Thầy là Phật vì Phật gần gũi, đơn giản và tận tụy thế thôi.
Chẳng phải hành giả chỉ thấy Thầy mình là Phật, mà những khi ngồi yên, lắng tâm, đẩy được những ngọn bát phong bay xa, hành giả còn thấy biết bao nhiêu vị Phật khác đang lặng thinh cứu khổ giữa ngũ trược ác thế này. Vì đã chứng bất động tâm giải thoát nên chẳng phiền não thế gian nào có thể làm dao động tâm tư các ngài. Giữa mênh mông biển khổ, các ngài dũng mãnh đưa tay dắt từng sinh linh đủ duyên, qua sông mê, tới bờ giác, dù phải hy sinh tới phương tiện cuối cùng là tấm thân tứ đại vô thường!
Chúng con, những chúng sinh sơ cơ, tâm còn dễ loạn động, ý còn dễ vướng mắc nên soi gương mà chẳng thấy bóng mình, xin nương nhờ Bồ-tát lực khai tỏ những điều Phật dạy để nhìn lại bản lai.
Giai thoại xưa từng kể, có những vị thiền sư ngồi rách bảy cái bồ đoàn mà chưa đến được cửa “Không”. Vậy có phải những vị đó đã ngồi như Duy-ma-cật từng buông lời làm chùn lòng Xá-lợi-phất? Hay lời Duy-ma-cật nhắc nhở Xá-lợi-phất chỉ là phương tiện của quý ngài, tùy thuận chúng sinh mà đối thoại như thế để khuyến tấn những tâm loạn động biết Ngồi yên.
Một ngày, nếu dành cho thân dăm phút thực sự ngồi yên; rồi bằng quyết tâm, biết đâu sự kỳ diệu sẽ đến, là tâm và ý cũng ngồi yên như thân.
Khi thân, tâm, ý cùng lắng yên, có phải là lúc năng lượng của Im Lặng Hùng Tráng khai mở, sự im lặng từng làm dựng lông tóc vua A-xà-thế khi nhà vua được dẫn vào Trúc Lâm viếng đức Phật để xin chỉ dạy sự sám hối.
Phải gạn lọc thân, tâm, ý thế nào để khi soi gương thấy được bóng mình?
Một vị đạo sĩ tình cờ ghé thăm đạo tràng khi đại chúng đang tụng bộ Sám pháp Lương Hoàng Sám. Nhìn đại chúng đông đảo đủ mọi thành phần nam phụ lão ấu đều thành khẩn tụng lạy ba ngày liền, vị đạo sĩ cảm động lắm nên ban cho ít lời khai thị.
Đã có duyên lành được tụng bộ kinh gì thì thế nào đại chúng cũng được những vị thầy hướng dẫn cho biết xuất sứ bộ kinh đó trước khi đi vào văn bản. Đạo tràng đây đang tụng lạy Lương Hoàng Sám, hẳn đã biết danh xưng này do lòng thành của vua Lương Võ Đế, thương tưởng và muốn cứu độ hoàng hậu Hy Thị nên đã thỉnh các bậc cao Tăng đương thời tới triều đình, cùng biên soạn tỉ mỉ những tội lỗi thế gian và cách sám hối, chuộc tội. Vì thế, khi bộ Sám pháp Lương Hoàng Sám hoàn tất thì không phải chỉ là tấm lòng của một người hướng đến một người mà là tâm thành của mỗi người đọc tụng hướng đến tất cả ba cõi, sáu loài để xin chư Phật, chư Bồ- tát mười phương chứng giám.
Chính vì thế mà đạo tràng nào tụng lạy Lương Hoàng Sám cũng đều tạo được năng lượng vô biên.
Chi tiết nhỏ không được phổ biến nhiều trên giấy mực về người khởi xướng bộ kinh này mà vị đạo sĩ chia sẻ với đại chúng, là vua Lương Võ Đế đã bốn lần bán mình cho Đạo.
Thật là kỳ thú!
Một vị vua quyền uy ngất trời, giàu sang tột bực mà phải bán mình tới bốn lần là sao?
Bởi vị vua này coi ngai vàng như hạt sương đầu cỏ, có đó rồi tan, còn đó rồi mất nên ông quyết đi tìm cái thường hằng vĩnh cửu. Cái đó là gì? Từ đâu? Ở đâu? Nương theo lời Phật dạy, lần từng bước, đến một ngày, ông chợt nhận ra đó là Khả Năng Nhận Biết Mọi Sự Mà Không Dính Mắc Vào Đối Tượng Nào.
Cái nhận biết đó vốn dĩ sẵn có trong mọi loài, thường bị che phủ bởi những vô minh, chấp trước. Ai kịp nhận ra như thế, biết lột dần lớp vỏ vô minh thì cái nhận biết thường hằng trong sáng kia hiển lộ. Đức Phật chỉ cho cái nhận biết đó là Phật tánh.
Thế là nhà Vua bỏ cung vàng điện ngọc, tìm một ngôi chùa nhỏ khuất lấp trên núi cao để tĩnh niệm, quán chiếu Tứ diệu đế, tự coi mình có diễm phúc như năm anh em ngài Kiều Trần Như, học bài pháp đầu tiên đức Phật giảng dạy.
Một đất nước làm sao có thể không có Vua? Thế nên triều đình hoảng sợ, túa đi tìm Vua, triệu về hoàng cung. Vua phiền lòng lắm, nhưng nghĩ tới trách nhiệm với thần dân nên bảo, vua đã là người ở chùa, muốn triệu về nơi khác thì phải “chuộc” với chùa. Thế là triều thần phải mang vàng bạc tới chuộc. Nhưng về cung chẳng bao lâu, nhà vua buồn chán, lại một mình lẻn lên chùa! Bốn lần như thế, ngôi chùa nhỏ bỗng trở nên giàu có!
Nhà vua biết, tiếp tục mãi thế này cũng chẳng yên thân ở chùa nên quyết định tu tại gia. Từ đó, tuy ở trong hoàng cung, dành một phần thì giờ lo trị nước an dân, nhưng vua chỉ mặc áo nâu sồng, sớm tối công phu, ăn ngày một bữa, làm việc chấp tác như một thầy tu và không hề ngày nào bỏ thời sám hối.
Là đồng tác giả cuốn Sám pháp, nhà Vua biết rằng pháp tu nào Lý và Sự cũng phải đi đôi. Ở mức độ cạn, về Lý, thì sám hối là trải rộng cõi lòng u uẩn, hầu rửa sạch tâm can. Ở mức độ sâu hơn, về Sự, là đi vào Thế gian pháp qua những hình thức hành sám, trì kinh, niệm Phật… Ngay nơi đây, năng lực gia trì không phải từ những lời chú bí hiểm mà từ sự thành tâm của người trì tụng.
Có khổ công gạn lọc được thân tâm, khi soi gương mới mong thấy bóng mình. Đời này, đãi cát tìm vàng đã khó, huống chi giải đãi mà mơ tưởng Huệ Năng, chỉ nghe một câu kinh đã liễu ngộ:
“Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai”.■
(*) Huyền thoại Duy-ma-cật - TT. Tuệ Sỹ
|