Vị thiền nơi đầu lưỡi
Takashina Rosen
Việt dịch: Nguyên Châu
Những gì tôi sắp nói về Thiền (Zen) không phải là bài thuyết pháp chính thức mà chỉ muốn chia sẻ với những người muốn có một kiến thức chính xác về Thiền và hiểu được nó. Những học thuyết và tinh thần Thiền đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người Nhật. Món mì sợi, món dưa cải, đậu hủ và nhiều thứ hiện đang là những món ăn hằng ngày của dân tộc chúng ta hầu hết đều có nguồn gốc từ Thiền. Luật phải rửa mặt và súc miệng mỗi sáng là do thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) đặt ra từ thế kỷ 13. Nghệ thuật trà đạo và cắm hoa được phát triển trên căn bản của tinh thần Thiền. Nếu hỏi Thiền là gì thì thật khó thể trả lời. Tuy thế tôi vẫn hy vọng những người bắt đầu học thiền có thể đạt được một ít hiểu biết nào đó từ bài viết nhỏ này. Thiền sư Dogen (Đạo Nguyên) có nói trong tập Shobo Genzo (Chánh pháp nhãn tạng) rằng thực tập Thiền có nghĩa là thiền tọa. Nguồn gốc của chữ Thiền, hoặc Zen, là viết tắt của chữ Zazen. “Zazen là cánh cửa chính của đạo Phật”. Muốn đi vào đại sảnh của đạo Phật thì theo phép là mình phải đi qua cửa chính. Lén vào cửa sau xem dường như dễ hơn, nhưng chỉ khi nào đi vào bằng cửa trước với những nghi lễ cần thiết thì mình mới được chấp nhận của gia đình đó. Một khi thân thiện với gia đình ấy rồi thì mình có thể tự do đi vào bằng cửa sau hoặc cửa hông mà không gây phiền toái cho gia đình.
Đạo Phật đã được truyền vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI dưới triều đại Khâm Minh Thiên Hoàng (Kimmei), nhưng mới chỉ bằng một số tranh tượng Phật và những bản kinh sao chép. Đấy chưa phải là đạo Phật thật sự. Vào thế kỷ XIII, Tổ Dogen đã đến núi Tendo (Thiên đồng) ở Trung Hoa, nơi Ngài đã thọ giáo thiền sư Nyojo (Như Tịnh). Ngài đã “buông bỏ và quên mất thân tâm”, và sau khi chứng ngộ, Ngài đã trở về quê nhà và mang theo truyền thống thiền tọa chân xác.
Điều quan trọng nhất đối với thiền tọa - ý nghĩa thực sự của nó theo Tổ Đạo Nguyên - lại thường bị hiểu lầm. Có những người nghĩ rằng hành thiền tọa là để đạt đến giác ngộ (satori), và khi giác ngộ đã viên thành, thì thiền tọa không còn cần thiết nữa. Đây là loại Thiền “chờ ngộ” và nó hơi khác với loại Thiền mà sự thiền tọa tự nó đã là Phật hạnh. Với loại thiền trước, hành thiền tọa là vì mong cầu giác ngộ, và chỉ duy mục đích ấy; sau khi giác ngộ, tọa thiền không quan trọng nữa. Nhưng thiền sư Dogen nhấn mạnh rằng phương pháp và truyền thống đích thực của chư Phật và chư Tổ là khi thực tập thiền tọa tự nó đã lợi ích chứ nó không đơn thuần là phương tiện để mong cầu giác ngộ. Sự thật là khi chú tâm vào một công án, phải quăng hết toàn bộ cuộc sống mình vào việc hành tập với mục tiêu là giác ngộ. Nhưng tọa thiền theo truyền thống của chư Phật và chư Tổ là điều được gọi là Tam muội Tự thọ dụng, chứ hoàn toàn không phải tọa thiền là cách để giác ngộ. Sự thọ dụng của chư Phật và Tổ được biểu lộ rõ trong tư thế tọa thiền, đó là Phật sự và Phật đạo. Tổ Dogen đã nhấn mạnh điều này. Thiền là cảnh giới tự thọ dụng của chư Phật. Ba nghiệp thân, khẩu và ý được in dấu ấn Phật quả và biểu thị chư Phật. Thiền Tào Động là tư duy thuần tịnh trong tư thế ngồi, sự tọa thiền luôn luôn được chư Phật, Tổ hành trì, do đó nó phải được tiếp tục ngay cả khi đã giác ngộ. Không phải sự giác ngộ là không cần thiết, nhưng ai nghĩ rằng thiền tập có thể bỏ đi sau khi đã tiến đến sự giác ngộ là một điều sai lầm.
Đạo truyền thống vốn thường hằng, và tọa thiền cũng thế. Phật sự tỏa khắp vạn hữu mười phương thế giới. Ở Đông phương, năng lực tư duy đã kết tinh thành nền tảng của văn minh và khuyến khích khoa học, nghệ thuật, kỹ thuật, kinh tế và mọi khía cạnh văn hóa được hưng thịnh. Do đó, trong sự tọa thiền của chúng ta, hành trì và giác ngộ là một. Trong thực tập hiện tiền đã là ngộ, ở đây và bây giờ, hơn thế nữa, cả hai đều thường hằng.
Nhật Bản ngày nay nói chung có ba dòng thiền chính: Obaku (Hoằng Bá), Rinzai (Lâm Tế), và Soto (Tào Động). Dòng Hoằng Bá có bổn môn ở Uji (Vũ Trị). Có lẽ môn phái này chịu ảnh hưởng quá mạnh của người Trung Hoa, nên nó không phát triển được ở Nhật, mà chỉ có ở vài tự viện. Dòng Lâm Tế bị chia ra thành nhiều chi phái, với các Tổ đình ở Kyoto (Kinh đô), Kamakura (Liêm thương), và nhiều nơi khác. Nó đã có ảnh hưởng lớn trong sự phát triển văn học và nghệ thuật. Điều quan trọng trong phương pháp thiền tọa của môn phái này là giải công án. Vì thế nó được gọi là thiền chờ đợi giác ngộ. Công án được chiêm nghiệm hết cái này đến cái kia và giai đoạn chứng ngộ được sở đắc qua từng công án, như leo lên từng cấp của chiếc thang giác ngộ. Theo quan niệm này, chỉ sau khi giác ngộ mới có Phật quả. Dòng Tào Động có hai Tổ đình và mười lăm ngàn tự viện chi nhánh và môn phái này không bị phân chia. Thiền được gọi là “mặc chiếu”, ngược với trường phái “chờ ngộ”; giáo pháp là thuần tịnh chiêm nghiệm và không phân biệt giữa hành trì và chứng ngộ. Thiền tọa của chúng ta là ngồi như thế nào để cho dấu ấn của Phật được biểu hiện qua ba nghiệp thân, khẩu và ý của mình, và thiền tọa này chính là Phật hạnh. Đó cũng là sự hành-chứng của thiền sư Dogen, trí tuệ cao siêu nhất.
Trong thiền tập, như đã nói, có cả đọc kinh, làm việc, ăn cơm, uống nước, v.v... Ngược với quan niệm cho rằng Phật quả chỉ bắt đầu sau khi giác ngộ, là Thiền-phát khởi-từ khi-giác ngộ, đây là loại thiền Bổn chứng. Tọa thiền là Phật sự của bản ngã vốn là Phật từ khởi thỉ, vì vậy không bao giờ ngưng nghỉ. Đó là loại thiền tọa hiển lộ sự giác ngộ từ khởi thỉ hay là sự bổn chứng. Như thế cũng một chữ tham Thiền mà có bao môn phái khác biệt, chúng ta cần phải hiểu rõ. Mỗi quan điểm đều có lợi ích riêng của nó, hà tất phải xét nét phê bình nhau.
Về sự vĩ đại của công phu thiền tọa này, Ngài Dogen có nói: “Nếu tất cả chư Phật trong mười phương, vô lượng như số cát sông Hằng, đem tất cả sức mạnh và Phật trí của chư vị, cũng không thể đo lường được công đức của một người đang hành thiền.”
Tuy nhiên, khi thiền tập làm gia Tăng thiền lực dễ dàng thì cũng dễ sinh khởi chứng thiền bệnh kiêu mạn. Chúng ta thường bị lặn chìm vào trong hàng ngàn sự hoang mang của thế giới, quay cuồng vào trong vô số những thay đổi của cuộc đời. Kết quả là mình rất dễ bị lôi kéo vào những việc xảy ra; và những ai muốn tự cởi trói và được tự do thì sẽ tự tìm tới Thiền. Nhưng vì ngồi thiền trở thành một phần chính yếu trong cuộc đời họ, bấy giờ họ dễ phát sinh thiền bệnh. Khi sự quán tưởng trở thành điểm duy nhất, trong khi thiền tọa Phật có thể xuất hiện, hoặc ma, hoặc thiện thần; họ có thể cảm thấy bị rắn quấn quanh, hay nhiều hiện tượng khác xuất hiện. Lúc ấy tất cả những hiện tượng đó, cho dù là chính Phật xuất hiện để tán thán chúng ta, cũng chỉ là những chứng bệnh Thiền. Đó là những thác loạn của tọa thiền. Một điều chúng ta phải thận trọng lưu ý, đó là dù mình có thấy hình tướng Phật một cách rõ ràng, hoặc đang bị ma đuổi sau lưng mà cảm thấy sợ hãi, tất cả đều là ma sự mà thôi.
Đối với những thiền sinh nghiêm túc, tư thế ngồi là bước đầu tiên trong việc tọa thiền. Nó hơi đặc thù vì là việc tập luyện về tinh thần, trước hết tư thế của cơ thể phải được giữ thật chính xác, giống như trong sự luyện tập cơ thể chúng ta phải luôn chắc rằng mình đã tiếp cận đúng với tinh thần “thể thao”, phải làm đúng điều đó trước tiên. Vì vậy, trong thiền tọa, chúng ta phải nhìn thấy thân thể được đặt ngồi đúng tư thế. Thiền sư Dogen đã mô tả điều này rất chi tiết trong tác phẩm Fukan Zazen-gi (Phổ khuyến tọa thiền nghi).
Về chỗ ngồi, ta trải một tấm chiếu dày, rồi đặt trên đó một chiếc bồ đoàn nhỏ để ngồi. Nếu như không có bồ đoàn ta cũng có thể dùng một cái gối thường. Nửa thân sau bàn tọa được đặt trên bồ đoàn thì chỗ ngồi được vững chắc. Có hai tư thế ngồi chính là kiết già và bán già. Tên gọi tùy theo cách mình đặt hai chân. Trong tư thế ngồi kiết già, hai chân đan vào nhau bằng cách đặt bàn chân phải lên đùi trái, rồi đặt bàn chân trái lên đùi phải. Bàn tay phải để ngửa được đặt trên chân trái, bàn tay trái cũng để ngửa được đặt trên bàn tay phải. Hai đầu ngón tay cái có thể đụng nhau. Giữ xương sống thẳng đứng, không nghiêng về bên trái hoặc phải, không bổ về trước hoặc ngã ra sau, sao cho hai lỗ tai thẳng một đường với hai vai và mũi thẳng một đường với đan điền. Đây là thế ngồi thiền chính xác. Lưỡi chạm vào hàm trên, miệng khép và mắt hé mở. Hơi thở phải được tự nhiên và có thể nhận biết khi thở ra vào qua hai cánh mũi. Bằng cách này thì thân của ta được an lắng cho buổi thiền tọa.
Còn trong tư thế bán già, chỉ bàn chân trái được đặt lên đùi phải. Tuy nhiên, để thay đổi, mình có thể đặt bàn chân trái xuống và để bàn chân phải lên đùi trái. Tọa thiền nghi chỉ đề nghị tư thế đặt chân trái lên đùi phải, nhưng đối với những thiền sinh thì cả hai cách đều được trong tư thế ngồi bán già. Đối với tư thế ngồi kiết già cũng vậy.
Những người mới thực tập có thể ngồi bán già, dần dần tiến tới ngồi kiết già. Những người thường mặc Âu phục và quen ngồi ghế sẽ cảm thấy khó ngồi kiết già, có thể ngồi trên chân theo kiểu Nhật, hoặc cũng có thể ngồi thiền ngay trên ghế. Mọi người nên chọn tư thế nào thích hợp cho mình.
Theo truyền thống tư thế con người được phân ra bốn loại: đi, đứng, ngồi và nằm. Người ta có thể hỏi tại sao Thiền chỉ nói về ngồi. Về điều này, Tổ sư Dogen dạy: Trong bốn tư thế, tại sao tư thế ngồi được cho là thích hợp với thiền quán và giác ngộ? Nên biết rằng từ xưa tất cả chư Phật đã theo cách luyện tập này để đạt tới giác ngộ. Nếu đòi cho một lý do, thì lý do thật giản dị: đó là phương pháp của chư Phật, và ta không nên hỏi gì thêm. Chư Tổ đã ca ngợi phương pháp này như một cửa ngỏ đưa đến an lạc và hạnh phúc. Và phương pháp này không phải đã được một hoặc hai vị Phật thực hành, mà là phương pháp của tất cả chư Phật và chư Tổ.
Với người đã chứng ngộ và đạt tới mức thiền định vững vàng thì không cần thiết phải kẹt vào việc đi, đứng, nằm và ngồi, nhưng nhìn chung tư thế ngồi cho đúng, và kiểu ngồi kiết già là phương pháp phù hợp – vì vậy chư thầy, Tổ trong quá khứ đã noi theo gương của đức Phật Thích Ca, và đã để lại cho chúng ta rất nhiều kinh nghiệm của họ.
Đức Phật muốn dạy chúng ta điều gì? Có phải là sự thông thái? Có phải là tri thức hàn lâm? Hay mục đích của Ngài là khuyến khích chúng ta đọc kinh, thực hành khổ hạnh và khắc kỷ? Sự thật là không phải vậy. Ngài chỉ đơn giản muốn chỉ dạy tất cả chúng sanh biết cách đặt để thân tâm mình cho đúng chỗ. Cách để làm việc này được nói đến trong Zazen-gi là: “Nghĩ điều không thể nghĩ. Làm sao nghĩ được điều không thể nghĩ? Sống không dấy niệm-đó là bí quyết của thiền”. Không dấy niệm là đối tượng của thiền tập; việc kiểm soát thân và tâm chỉ là phương pháp để đạt đến điều này. Khi thân và tâm đã được kiểm chế, ý niệm không còn, trí thức sẽ phát sanh, thứ trí tuệ viên mãn của Phật, việc đọc kinh, dấn thân, khổ hạnh và khắc kỷ. Có những người quá nóng vội đã cho rằng việc đọc kinh, dấn thân hoặc khắc kỷ tuy có giá trị của chúng, nhưng không phải là thiền truyền thống do đại sư Dogen truyền đạt.
Sống không dấy niệm nghĩa là gì? Định sinh động của hết thảy chư Phật chính là trạng thái không khởi niệm ấy. Nói nôm na, người ta có thể nghĩ vật này giống cái cây hoặc tảng đá, nhưng nó hoàn toàn không phải thế. Nó không thể được lãnh hội bằng tri thức thông thường của chúng ta; mà ta cũng không thể hiểu nó bằng vô thức. Ta chỉ có thể hiểu nó qua kinh nghiệm của chính chúng ta về nó.
Những người sơ cơ, khi nghe nói bí quyết của thiền là không một khởi niệm, không thể sở đắc bằng tri thức, cũng không bằng vô thức, không thể hiểu đó là gì và rất hoang mang. Giờ đây, thay vì băn khoăn tìm cách nắm bắt nó, hoặc cố gắng để hiểu hay phân tích nó, thì điều cốt yếu là hãy thực hiện một cú nhảy cương quyết vào cái chết, buông bỏ thân xác và cả chính cuộc sống của mình. Có nghĩa là chặt đứt hết tất cả mọi vọng tưởng phân biệt ngay tận nguồn gốc của chúng. Nếu chúng ta tiếp tục chặt đứt tận gốc rễ chúng thì sự giải thoát khỏi mọi dấy niệm tự khắc sẽ đến, có nghĩa là bổn chứng đã hiện khởi, hay còn gọi là giác ngộ. Một cổ nhân đã nói: “Trong thiền việc quan trọng là dừng lại dòng biến động của tâm”. Điều này có nghĩa là dừng lại những tác động của tri thức duy nghiệm của chúng ta, một mớ những ý nghĩ, ý tưởng, và quan niệm. Đại sư Dogen lại nói: “Cắt đứt dấy niệm bằng công năng của thiền định. Chỉ cần như vậy, ai cũng có thể đạt được Đạo”. Đạt Đạo là nhận ra tâm Phật vốn là chân tánh của chính chúng ta. Hào quang tâm Phật tỏa ra từ chính tâm mình; lòng từ bi khởi nguồn từ tâm Phật có trong mỗi chúng ta. Từ đó ta biết rằng trang nghiêm của Phật cũng là trang nghiêm tự có nơi mỗi người.
Học thuyết về nghiệp là một khía cạnh của đạo Phật. Theo học thuyết này, toàn bộ thế giới hiện tượng mà chúng ta đang thấy biết được xem như hệ quả của những ý nghĩ, lời nói, hành động trước đó của cá nhân cũng như tất cả chúng sanh, là nhân tạo tác. Thực ra toàn bộ thế giới hiện tượng được kinh nghiệm tùy theo nghiệp của ta. Ba hình thức nghiệp, thân, khẩu và ý nghiệp, đều có thể bị chi phối dưới tác động của trí hay tâm. Và tâm này có là tâm Phật hay không chính là nguyên nhân quyết định quả lành hay dữ cho chúng ta. Nếu chúng ta chỉ coi trọng bản ngã của mình mà không đoạn trừ dấy niệm thì tâm Phật không hiển lộ.
Nan giải thực sự của thiền tập là làm sao dừng lại dòng biến động của tâm, đoạn trừ các dấy niệm. Khoảng 2500 năm trước, tại Kushinara, Ấn độ, đức Thế Tôn, Phật Thích-ca-mâu-ni, trước khi diệt độ đã dạy những lời cuối cùng về tâm và các căn cho các đệ tử: “Các người phải làm chủ tâm mình.” Tâm đây không phải là tâm Phật, mà là tâm tự ngã của phàm phu luôn sống vọng động với nó. Có loài tắc kè hoa nào có thể sánh với tài biến hóa của tâm nguời? Mới hạnh phúc vui cười đó, thoắt cái lại u sầu, rồi lại giận dữ vì một chuyện nào đó; rồi muốn ăn, muốn ngủ, muốn cầu nguyện xong lại muốn phỉ báng... Trong cái gọi là chuyện thị phi của các bà sự tán loạn của tâm trở nên hiển nhiên một cách ồn ào như lời nói vậy. Nói cho cùng có thể nó không quá tệ như vậy, nhưng từ đó lại có thể nảy sinh những điều đáng sợ như trộm cắp, giết người - tất cả những biến tướng của cái tâm vị kỷ. Đó là lý do tại sao trong trường phái Duy Thức của Phật giáo, mọi sự biến đổi đều được gọi là biến hóa của tâm thức.
Tâm ta tự bản chất không tốt cũng không xấu, có người cho là tốt có người cho là xấu, trong cái nhìn của cổ nhân nó chẳng là cả hai. Dù nó thế nào, tâm chúng ta trong một ngày hoạt động không ngừng nghỉ đã trải qua vô vàn thay đổi và biến hóa, tốt cũng như xấu. Lý trí và đạo đức nhắc nhỡ chúng ta phải hết sức cẩn thận đừng để lạc vào tà đạo, và nỗ lực gìn giữ cổ xe của đời mình luôn trên chánh đạo. Một thi nhân xưa đã nói: “Khi bạn cảm thấy bị nó lôi kéo, đừng thả lỏng dây cương của con ngựa non của tâm, kẻo nó lạc vào ác đạo.” Tâm của con người căn bản là tự do. Người ta nói điều quan trọng là luôn giữ nó đúng hướng, nhưng thiền không bàn về một hướng đạo đức như thế. Chỉ có một vấn đề là Phật tâm, cái thúc đẩy chúng ta đến bước vượt tối hậu để chấm dứt dòng biến động của lý trí và đoạn trừ dấy niệm. Một lần và mãi mãi, chúng ta phải cắt đứt sự tác động của lý trí vốn là cái tôi tiềm ẩn nơi phát sanh mọi bất thiện.
Đạo Phật dạy tâm con người có hai phương diện: tâm thanh tịnh và tâm bất tịnh. Nhưng tâm tự nó không là cả hai; nó chỉ được phân loại như vậy tùy theo tác động của nó. Tâm thanh tịnh là bản tánh thanh tịnh vốn có của chúng ta, không khác với Phật tâm. Ngược lại là tâm bất tịnh cái khiến chúng ta điên đảo ngày đêm, cái tâm vị kỷ vì ảo tưởng, cái tâm bị tham dục khống chế. Vì tính ích kỷ, tâm tham dục này không an, mà chúng ta luôn bị phiền não; tâm này hoàn toàn khinh xuất, mãi mãi dẫn đưa con người vào đường lầm lạc.
Trên căn bản, chân tâm, hay chân tánh của chúng ta, vốn thanh tịnh và vô hạn, như mặt trăng sáng tỏ trên bầu trời xanh. Vào một lúc nào vô thức, nó bị nhiễm ô bởi khát ái và trở thành tâm bất tịnh, một cái gì không thật của chúng ta mà chỉ đến về sau. Cái đến sau dần chiếm ưu thế và che lấp chân tâm, cũng như người ái thiếp lấn át chánh thất. Báo chí thường đăng tải những vụ sụp đổ của các đại công ty do các nhà quản lý đã lường gạt, lấn quyền chủ và sử dụng tiền cho riêng anh ta. Chính bằng cách này chúng ta đã tự phó thác mình cho những hoạt náo của cái tâm mê lầm đầy khát ái, đến nỗi người chủ thật sự, Phật tâm trong ta, không thể hiển lộ. Những ý tưởng của tâm bất tịnh luôn điên đảo, vì nó nhìn thấy thực tại theo chiều đảo ngược. Chính danh thủ phạm của sự mê lầm này được đức Phật gọi là “ngũ tặc”. Năm căn này - mắt, tai, mũi, lưỡi và thân đã vướng vào mọi trần cảnh đầy cám dỗ rồi dẫn truyền chúng đến tâm bất tịnh để thỏa mãn nó. Bởi lý do đó, chúng được gọi là căn, cũng như gốc rễ cây dẫn truyền nhựa cây đến các cành lá để nuôi sống nó. Tất nhiên tác dụng của các căn không tự nhiên là độc hại; tác động thực sự của chúng không xấu. Chúng chỉ bị lạm dụng bởi cái tâm bất tịnh và bị hướng vào những chiều hướng xấu. Trong những lời dạy cuối cùng của đức Phật, Ngài đã nói: “Năm căn này lấy Tâm làm chủ”. Vì vậy bản chất suy đồi của tâm bất tịnh được ví như loài rắn độc hoặc dã thú. Nó lôi cuốn cuộc đời đáng lẽ hướng về Phật là chân tánh của chúng ta. Nằm ngay trong lòng ngực ta là con rắn độc đang thở ra ngọn lửa tam độc, đem đến cho chúng ta toàn khổ đau và phiền não.
Để thoát khỏi tâm bất tịnh xấu xa này cho ánh hào quang thuần tịnh từ chân tâm trong chúng ta có thể rọi sáng, năm căn phải được đoạn trừ. Bởi vậy mới nói ta cần phải đoạn trừ dấy niệm. Bằng cách nào? Có nhiều phương pháp, nhưng phương pháp của thiền là tĩnh tọa. Với cách ngồi này thì toàn thân ta sẽ được tiếp dưỡng. Sau đó ta tham thiền, buông bỏ dần thân và tâm. Bấy giờ, những mê lầm từ tâm bất tịnh sẽ không ngừng trổi dậy. Chúng ta nên biến những mê lầm này, cái nọ tiếp nối cái kia, thành công án để quán chiếu: Dấy niệm này, rốt ráo, là gì? Nó đã đến từ đâu? Với ngọn giáo của thiền quán, chúng ta xâm nhập vào tận nguồn gốc của những ảo tưởng liên tiếp ấy.
Khi chúng ta thực tập thiền tọa theo cách này đều đặn và có tiến bộ trong tư duy, tư duy tự nó ngày càng sâu sắc và viên mãn hơn, cho đến lúc không còn chỗ cho những ảo tưởng kia xuất đầu lộ diện nữa. Hành trì thì vô hạn, và đường vào chứng nghiệm chân lý cũng vô hạn; để cuối cùng lộ diện tự tánh huy hoàng là nơi hành trì cũng chính là giác ngộ. Điều ấy được gọi là nhìn thấy ‘chân diện mục’ của mình; và ngay trong đời này, rất nhiều người trong chúng ta có thể thành tựu được. Sự hành trì như mô tả không có gì giả tạo cả, nhưng sự dễ dàng của nó có thể bị lầm lẫn, và hầu hết chư vị tiền bối đều đã khó nhọc trải qua. Có rất nhiều châm ngôn về vấn đề này, như là, “Sau khi thắng hàng trăm trận chiến, giờ đây tôi sống tuổi già trong niềm đại bình an” hoặc “Đã bao lần vì lợi ích các ngươi mà ta vào hang rồng nơi tàng trữ báu vật!”
Còn có một phương pháp khác. Đầu tiên cũng cùng cách tiếp dưỡng toàn bộ cơ thể, rồi chúng ta cần khổ với một công án do vị thầy trao cho. Chữ “Vô” của thiền sư Joshu (Triệu Châu), “Cây tùng trước sân”, “Chân diện mục”, “Tiếng vỗ của một bàn tay”- công án nào cũng được. Vấn đề là sử dụng công án trong thiền tập phải với tất cả sức mạnh của ý chí chúng ta, chuyên chú vào đó không chút xao lãng. Nếu có một mảy may biện biệt trong việc tham cứu này, toàn bộ công phu sẽ sụp đổ. Chẳng hạn như, ta đang quán chiếu về tiếng vỗ của một bàn tay. Dù ta cố hiểu nó bằng trí năng phân biệt, ta sẽ không bao giờ hiểu được. Cũng có thể ta cho rằng mình đã hiểu, nhưng đó chẳng qua là cái hiểu bằng tâm phân biệt bất tịnh, luôn nghĩ về “Tôi”, “của tôi” hay “tôi làm”. Tham thiền là cắt đứt tận gốc cái tâm luôn nghĩ “Tôi hiểu nó”, để vào chỗ không còn sự biện biệt bất tịnh; và ai còn hài lòng với cái hiểu của trí năng là còn xa cách cứu cánh thiền. Chúng ta đã được bảo hãy nghe tiếng vỗ của một bàn tay, mà một bàn tay làm sao vỗ thành tiếng, thì đương nhiên bằng biện biệt và phân tích cũng không thể hiểu được. Điều cốt yếu là toàn bộ thân và tâm của ta phải thẩm nhập vào công án và đừng để bất cứ ý niệm nào khác hiện khởi, sao cho không những trong thời gian tham thiền mà cả khi đi, đứng, ngồi, nằm... vẫn tiếp tục thiền quán không gián đoạn. Viện chủ Reiun (Linh Vân), nhìn thấy hoa đào nở, hốt nhiên giác ngộ, còn thiền sư Kyogen (Hương Nghiêm) khi nghe tiếng gãy của một cây tre. Mỗi chúng ta theo nghiệp của mình, mà đất trời bùng vỡ trong khoảnh khắc, như cánh cửa đập đã được mở ra, và bất chợt chúng ta thành tựu an lạc với dòng đời vô hạn.❑
BỒ TÁT ÐỊA TẠNG, ^
Vị Bồ-tát Bảo vệ trẻ em trong Truyền Thống Phật Giáo Nhật Bản (*).
Tâm Hà
Khi mùa Xuân tới
Cây lá đâm chồi
Hoa nở thắm tươi
Nhưng những trẻ thơ
Như lá rụng rơi
Trong mùa Thu qua
Không hề trở lại
RYOKAN[20]
(Cho các bé thơ đã bỏ mình trong bệnh dịch đậu mùa)
1. Theo Dấu Chân của Bồ-tát Địa Tạng.
Trong năm vị Bồ-tát lớn của Phật giáo Phát triển – Quan Âm, Thế Chí, Ðịa Tạng, Văn Thù, và Phổ Hiền - thì Bồ-tát Ðịa Tạng đại biểu cho một khuôn mẫu tốt đẹp và tích cực nhất của lý tưởng Bồ-tát đạo, qua hành động dấn thân, lăn xả vào chốn địa ngục lầm than để cứu độ chúng sinh với lời nguyện bất hủ: Khi nào trong cõi địa ngục còn một chúng sinh khổ đau, Ngài sẽ không bao giờ trọn thành Phật đạo. Thế nên được tôn sùng như là vị “U Minh Giáo Chủ”, Bồ-tát Ðịa Tạng cùng với Bồ-tát Quán Thế Âm đặc biệt đã được quần chúng Phật tử tại Á Châu theo truyền thống Bắc Tông tôn thờ kính ngưỡng. Thế nhưng cũng không phải là không có những tư tưởng phản bác, cho rằng Bồ-tát Ðịa Tạng chỉ là một nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa, và thậm chí còn bài bác quan niệm địa ngục trong Phật giáo xem đó như là một sự hù dọa tôn giáo. Ðể trả lời cho vấn nạn này, các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Ðộ hồi gần đây đã trưng ra rất nhiều bằng chứng xác định rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Ðộ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Phát triển[21], mà bằng chứng cụ thể là Bồ-tát Ðịa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Ðại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma-kiệt-đà.
Khi Phật giáo bắt đầu được du nhập vào vùng Trung Á, vào khoảng năm 140 C.E., và trạm dừng chân đầu tiên của bánh xe Pháp là Turkestan, tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng cũng theo bước chân của những tăng đoàn truyền giáo du nhập vào vùng này thông qua “Con Ðường Lụa” nổi tiếng trong lịch sử. “Con Ðường Lụa” như mọi người đều biết, dài trên hai ngàn dặm từ Ấn Ðộ vào Trung Hoa đi xuyên qua những địa thế rất gian nan hiểm trở, với những vùng khí hậu khắc nghiệt của cả núi cao lẫn sa mạc, thêm vào đó những vùng biên địa giữa những tiểu quốc lại đầy rẩy những thú dữ và những băng đảng cướp của giết người cũng như những bộ lạc còn rất dã man. Rất nhiều những kẻ lữ hành -kể cả các tăng sĩ truyền giáo- đã phải bỏ mạng trên đoạn đường này, đến độ theo du ký của những khách hành hương trong tinh thần “Nhập Trúc cầu Pháp” còn để lại, những bộ xương khô rải rác ở bên đường dọc theo sa mạc đã được dùng như là những dấu mốc cho kẻ lữ hành cho biết là họ đang đi đúng hướng. Ðối diện với những nỗi hiểm nguy lớn lao như thế, việc tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng như là vị Bồ-tát bảo vệ kẻ lữ hành là một điều dễ hiểu nếu không nói là một nhu cầu hiện thực, vì như trong Kinh Ðịa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, Phật thuyết:
“Lại vầy nữa, nầy Quán Thế Âm Bồ-tát! Về đời sau nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc nhơn sự làm ăn, hoặc nhơn sự công chuyện tư, hoặc nhơn sự sanh cùng tử, hoặc nhơn việc gấp mà phải vào trong rừng núi, hay là qua sông vượt biển, hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm trở. Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của ngài Ðịa Tạng Bồ-tát một muôn biến, được thế thời đi qua nơi chốn nào cũng có các vị quỉ thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói sư tử... nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó được.”[22]
Hàng ngàn hình tượng Bồ-tát Ðịa Tạng được tôn thờ trong những hang động tại vùng Long Môn và Ðôn Hoàng, Turkestan trong khu vực được gọi là Vạn Phật đã nói lên niềm tin tưởng của dân chúng địa phương về sự hộ trì của Bồ-tát Ðịa Tạng đối với khách lữ hành và là một bằng chứng sống động cho thấy rằng Bồ-tát Ðịa Tạng không phải là sản phẩm hư cấu của người Trung Hoa.
Từ cửa ngỏ Turkestan, Phật giáo được du nhập vào Trung quốc và chỉ trong vòng vài thế kỷ sau, khoảng năm 400 C.E , Phật giáo coi như đã hoàn toàn hội nhập vào vùng đất mới. Tại đây cây Bồ Ðề đã bắt đầu bám rễ một cách vững chắc góp phần vào việc phát triển một nền văn hoá Trung Hoa đa dạng, phong phú và rực rỡ. Ðồng thời tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng cũng đã bộc phát mạnh mẽ trong khoảng thời gian từ giữa cho đến cuối niên kỷ 500 C.E. do niềm tin của một giáo phái Phật giáo, “Tam Giai Giáo”[23], cho rằng, theo kinh Phật, đây là thời kỳ Mạt Pháp, và trong giai đoạn này việc thờ phượng Bồ-tát Ðịa Tạng là thích hợp nhất. Tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng đạt lên đến đỉnh cao khi người Trung Hoa chọn ngọn núi Cửu Hoa Sơn làm nơi trụ tích của Bồ-tát mà theo truyện tích còn để lại thì Bồ-tát đã hóa thân thành một nhà sư Triều Tiên đến Trung Hoa hoằng pháp và liễu đạo tại đây.
Từ Trung Hoa, Phật giáo cùng với tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng bắt đầu du nhập vào Nhật Bản thông qua cửa ngỏ Triều Tiên vào khoảng thế kỷ thứ Năm hoặc thứ Sáu C.E. Nhật Bản lúc bấy giờ so với Trung Hoa và ngay cả Triều Tiên, là một quốc gia còn ở trong tình trạng bán khai, lạc hậu. Bị hăm dọa thường trực bởi nạn động đất và núi lửa, dân chúng Nhật Bản đa phần sống dưới những túp lều tranh đơn sơ trong những ngôi làng bé nhỏ nghèo nàn, cai quản bởi những lãnh chúa địa phương. Họ chưa có thành thị, hệ thống tiền tệ, chữ viết, không trường học và bất cứ một nghi thức tôn giáo nào. Tuy nhiên Phật giáo đến với Nhật Bản không phải là để lấp chỗ trống tôn giáo này, vì dân Nhật vẫn có những tín ngưỡng đa thần cổ sơ, thờ cúng ông bà và tôn sùng Thần Ðạo. Ngược lại, Phật giáo đến với Nhật Bản như là biểu trưng của một nền văn minh Trung Hoa đã chín mùi, đầy sức thu hút và quyến rũ. Hơn thế nữa Phật giáo còn mang đến cho Nhật Bản những vị Bồ-tát rất gần gũi với những nhu cầu của cuộc sống đời thường, mà cụ thể là Bồ-tát Ðịa Tạng. Nếu như người Nhật trước đây tôn sùng Thần Ðạo, đã từng quen thuộc với những ông thần Núi, thần Sông, thì nay, Bồ-tát Ðịa Tạng-như tên gọi của Ngài- trong cảm quan người Nhật chẳng khác gì một ông thần Ðất thiết thân và gắn bó. Trong một sớm một chiều, hình ảnh của Bồ-tát Ðịa Tạng đã lần hồi chiếm chỗ của những vị thần đã ngự trị trước đây trong lòng dân Nhật. Người nông dân gặp khó khăn trong công việc đồng áng ư? Họ kêu cầu đến Bồ-tát Ðịa Tạng. Gặp lúc trời hạn hán không mưa? Lại phải nhờ đến oai lực của Bồ-tát Ðịa Tạng. Thậm chí gặp lúc đau mắt, nhức răng không biết chạy đi đâu người ta cũng phải chạy đến cầu sự giúp đỡ của Ngài. Ngài trở thành vị Bồ-tát bảo vệ thôn làng trước họa binh đao, nước lửa; là người bảo vệ cho sản phụ mẹ tròn con vuông, kẻ bảo hộ cho những chiến sĩ được bình an trong trận mạc. Chưa hết, đến phút lâm chung, cũng chính Bồ-tát Ðịa Tạng là người đến tiếp dẫn họ đến cõi Tây phương Tịnh Ðộ của Phật A Di Ðà, và chẳng may nếu một người nào đó gây nên những ác nghiệp xấu xa phải rơi vào chốn địa ngục, nếu biết ăn năn sám hối kêu cầu đến Ngài, Ngài cũng sẽ sẵn sàng lăn xả vào chốn địa ngục để đưa họ ra khỏi chỗ tối tăm...
Ðể tán thán công năng cứu độ chúng sanh không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Ðịa Tạng, người dân Nhật đã tạo ra không biết bao nhiêu những truyện tích, huyền thoại để nói về Ngài. Với khuôn mặt dịu hiền khả ái và trên môi như luôn luôn điểm một nụ cười, hình ảnh của Ngài đã hoà nhập vào tất cả mọi nền nếp suy nghĩ, những lo âu trong cuộc sống đời thường của dân chúng Nhật Bản. Hình ảnh của Ngài làm người ta liên tưởng đến hình ảnh của một vị y sĩ vùng quê sẵn sàng có mặt bất cứ lúc nào cho bất cứ ai cần đến trong cơn đau đớn, sợ hãi, âu lo, hoạn nạn dù lớn hay nhỏ. Cho đến bây giờ, không phải chỉ ở vùng quê mà ngay tại những thành phố, kể cả những thành phố lớn đông đúc rộn rịp như Ðông Kinh hay cố đô Kyoto, nếu bạn cần đến sự giúp đỡ của Bồ-tát Ðịa Tạng, có lẽ bạn cũng không cần phải đi đâu xa, bởi vì chỉ cách một vài góc phố, vài ngả tư đường người Nhật lại dựng lên một bàn thờ nhỏ thờ Bồ-tát Ðịa Tạng, mà trên đó là những bó hoa tươi thắm, những phẩm vật cúng dường đơn sơ nhưng chan chứa những tình cảm trân trọng: vài viên kẹo, dăm trái quýt, và đôi khi cả những chén rượu sake... Những bàn thờ này luôn luôn được chăm sóc sạch sẽ bởi cư dân địa phương, điều này đã nói lên những tình cảm tin tưởng trân quý của người Phật tử Nhật Bản luôn luôn hướng về Ngài. Ở những nơi thờ phượng lớn hơn, người ta còn thấy Phật tử dâng cúng lên Ngài những bộ áo quần trẻ con, những đôi giày, dép Nhật Bản, vì người ta tin tưởng rằng Bồ-tát Ðịa Tạng đã phải đi mòn không biết bao nhiêu là gót giày, tất bật tới lui không ngừng trên khắp nước Nhật để an ủi, săn sóc bất cứ những ai cần đến Ngài giúp đỡ. Ðặc biệt khi người ta dâng cúng đến Ngài những bộ áo quần trẻ con là vì do niềm tin theo truyền thuyết, Ngài là người rất yêu thích trẻ con, là vị thần hộ mệnh của những trẻ thơ bất hạnh. Ðây có thể nói là một trong những nét độc đáo, đầy ý nghĩa của Phật giáo Nhật Bản.
CHÚ THÍCH:
Một phần nội dung của bài viết được rút ra từ tác phẩm : « Jizo Bodhisattva, Mordern Healing & Traditional Buddhist Practice », Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002
(Còn tiếp)
BỒ TÁT ÐỊA TẠNG: Vị Bồ-tát Bảo vệ trẻ em trong Truyền Thống Phật Giáo Nhật Bản ^
Tâm Hà
(tiếp theo)
2. Bồ Tát Ðịa Tạng, Người Bảo Vệ Trẻ Con.
Theo niềm tin tưởng rất lâu đời của Phật tử Nhật Bản kể từ thời Trung cổ thì Bồ-tát Ðịa Tạng rất thương yêu trẻ con và vì thế Ngài là vị Bồ-tát có một sứ mệnh rất đặc biệt là bảo vệ trẻ con. Chính vì vậy mà đa phần những hình tượng Bồ-tát Ðịa Tạng tại Nhật Bản đều mang một khuôn mặt trẻ thơ rất đáng yêu. Trong các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Ðại thừa như Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, v.v... chỉ có Nhật Bản là có truyền thống độc đáo này. Người ta không biết rõ niềm tin này được phát xuất từ đâu, có thể là bắt nguồn từ cuốn kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện. Theo một phẩm ở trong cuốn kinh này thì vị quỉ thần cai quản về sinh mệnh và tuổi thọ của con người, Chủ Mạng Quỉ Vương, cũng là một vị Bồ-tát do lòng từ hóa hiện, trong khi cùng với các vua Diêm La câu hội về cung trời Ðao Lợi để nghe Phật thuyết pháp, đã bạch Phật:
“Người trong cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sanh, không luận là con trai hay con gái, khi sắp sanh ra chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thời Thổ Ðịa vui mừng khôn xiết, ủng hộ cả mẹ lẫn con đều đặng nhiều sự an vui, hàng thân quyến cũng được phước lợi. Hoặc khi đã hạ sanh rồi, nên cẩn thận chớ có giết hại sanh vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu ăn, cùng nhóm họp cả hàng quyến thuộc lại để uống rượu ăn thịt, ca xang đờn sáo, nếu làm những việc trên đó có thể làm cho người mẹ đứa con chẳng đặng an vui.” (5)
Trong một đoạn kinh khác, khi tán thán về công năng và oai lực của Bồ-tát Ðịa Tạng, Phật đã tuyên thuyết cùng Bồ-tát Phổ Quảng:
“Lại vầy nữa, nầy Phổ Quảng! Về trong thuở sau này, nơi cõi Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, trưởng-giả, cư sĩ, tất cả các hạng người, và những dân tộc dòng họ khác, như có người nào mới sanh đẻ hoặc con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sanh đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát đủ một muôn biến. Ðược vậy, thời đứa trẻ hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây ra tội vạ chi cũng đặng thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thời đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn”. (6)
Chăm lo cho hạnh phúc trẻ thơ chưa đủ, Bồ-tát Ðịa Tạng còn chăm lo đến số phận của những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu, hoặc vì lý do nào đó đã chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ. Chết yểu, theo quan niệm của người Á Ðông là một điều bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nữa theo quan điểm Phật giáo là vì trẻ thơ chưa có ý niệm về sự sống, chết; thế nên trong giai đoạn thân trung ấm, thần thức của chúng vẫn còn lảng vảng chung quanh những người thân yêu như cha mẹ anh chị em, không chịu rời bỏ căn phòng và ngôi nhà mà chúng đã từng sinh sống. Hàng ngày chúng tiếp xúc với họ, nói chuyện với họ và cảm thấy rất đau khổ vì những người thân yêu này hầu như không ai nghe lời chúng, không có vẻ gì quan tâm đến chúng cả. Chúng thật là cô đơn, buồn tủi và rất đáng tội nghiệp. Chúng ta đừng vội nghĩ một cách đơn giản rằng vì trẻ con ngây thơ trong trắng, trong đời chúng chưa hề gây ra một ác nghiệp nào nên khi chết là có thể được sanh về những cảnh giới tốt đẹp. Sự thật không phải như vậy. Ðiều này đã được đức Thế Tôn giải thích một cách khá rõ ràng khi phản bác lập luận của một người ngoại đạo cho rằng, nếu một người nào đó, thân không làm những điều xấu ác, miệng không thốt những lời cay độc, không có những tác ý xấu xa, không kiếm sống bằng những nghề bất lương, người đó như thế đã hoàn tất những nỗ lực tu tập tinh thần cần thiết và trở thành một bậc thánh, một bậc giác ngộ trong kiếp sống này. Ðức Thế Tôn đã phản bác rằng:
“Một hài nhi còn nằm ngửa chưa hề có ý niệm thế nào là ‘thân’ làm sao chúng có thể có những hành động xấu ác khi thân chỉ biết bò và lật? Một hài nhi còn nằm ngửa ngay cả còn chưa biết ‘nói chuyện’ thì làm sao có thể thốt ra được những lời cay độc khi miệng chỉ biết khóc nhè?... (Chúng) không hề có ý niệm thế nào là ‘tác ý’ thì làm sao có thể có những tác ý xấu xa? (Chúng) không hề có ý niệm thế nào là ‘nghề nghiệp sinh sống’ thì làm sao chúng có thể hành nghề bất lương để kiếm sống ngoại trừ rúc vào vú mẹ? Nếu (tất cả những gì mà ông nói) như thế, thì một đứa hài nhi còn nằm ngửa là một bậc Thánh, và là (một bậc giác ngộ)”. (7)
Như thế những linh hồn trẻ thơ này sẽ đi về đâu trong và sau giai đoạn thân trung ấm và Bồ-tát Ðịa Tạng làm thế nào để cứu giúp chúng?
Bên bờ sông Nại Hà
Theo sự tin tưởng của người Phật tử Nhật Bản, lứa tuổi trẻ con vì trí óc còn non nớt chưa phát triển nên không thể phân biệt được phải trái cũng như không thể thấu hiểu được những giáo lý của đạo Phật. Dĩ nhiên vì không thông hiểu giáo lý, chúng không thể tu tập để đạt đến giác ngộ - như đoạn kinh Phật đã giải thích ở trên - vì thế nên tuy ngây thơ vô tội, sau khi từ giã cõi đời chúng không thể sanh vào cảnh giới Phật, kể cả cảnh giới Tịnh Ðộ. Ngược lại, chúng bị rơi vào cõi u minh mờ mịt. Huyền thoại Á Ðông thường đề cập đến một dòng sông mà người chết trong giai đoạn thân trung ấm cần phải vượt qua, đó là sông Nại Hà.
Theo truyền thuyết của Nhật Bản, những trẻ con yểu tử sau khi chết đều tụ tập ở bên bờ sông này. Do lòng thương nhớ khôn nguôi đến những người thân yêu, tại đây chúng nhặt những hòn đá cuội sắp xếp thành những ngôi nhà để tưởng nhớ đến cha mẹ, anh chị em. Khi hoàn tất xong một cái, chúng bảo rằng: “Cái nhà này là của mẹ, người bảo bọc tôi. Cái nhà này là của cha, người nắm tay tôi dẫn dắt tôi trên đường đời. Cái này là của anh, chị, em tôi...”
Một số huyền thoại cho rằng chính trong lúc này Bồ-tát Ðịa Tạng đã hiện ra để chơi với chúng, khuyến khích, tiếp tay xây dựng những ngôi nhà trẻ con này hầu giúp chúng tích lũy công đức để nhờ đó có thể vượt qua dòng sông Nại Hà, trong khi chờ đợi chúng lớn khôn với đầy đủ trí phán đoán để có thể đi đầu thai sang kiếp khác. Tuy nhiên trong số những truyền thuyết này, cũng có chuyện đã kể lại một cách thương tâm và ghê rợn hơn. Truyện mô tả là không khí bên bờ sông Nại Hà rất là đìu hiu và thê lương, trẻ con thì không ngớt khóc than vì không còn cha mẹ để nương tựa, bám víu. Trong lúc này, một mụ phù thuỷ độc ác tên là Datsuba với một con mắt cháy đỏ hung dữ hiện ra, lột hết áo quần của tất cả bọn chúng treo lên cành cây. Mụ không ngớt nguyền rủa chúng là do chết yểu nên chúng đã không hoàn tất bổn phận của người con là phải săn sóc, giúp đỡ cha mẹ lúc cha mẹ già yếu. Ðể bù lại, mỗi ngày mụ bắt chúng phải ở trần truồng xây những căn nhà bằng đá cuội như là một sự trừng phạt. Nhưng rồi cứ mỗi buổi chiều tối, khi những căn nhà đã sắp hoàn thành xong thì một bầy quỉ hung ác khác, đầu sừng răng nanh hiện ra, dùng gậy sắt đập phá hết tất cả những công trình xây dựng của bọn trẻ, miệng không ngừng la lối nạt nộ: “Khốn nạn cho tụi bây chết trước cha mẹ! Tụi bây đâu đã biết cầu nguyện là gì!”
Chính lúc này thì Bồ-tát Ðịa Tạng hiện ra và bọn trẻ trong lúc đang kinh hoàng vội vàng chạy đến chui vào Tăng bào của Ngài để tìm chỗ ẩn trốn. Những đứa nhỏ hơn vì chạy không kịp đến trễ thì vội đeo vào cánh tay hay thiền trượng của Ngài. Bồ-tát Ðịa Tạng liền an ủi vỗ về chúng: “Không có gì các con phải sợ hãi cả. Từ đây, ta là mẹ là cha của các con.” Bọn quỉ đã xúm lại đòi Bồ-tát Ðịa Tạng phải trao đám trẻ con lại cho chúng, nhưng Ngài đã dùng uy lực của mình phóng ra những vầng hào quang rực rỡ khiến bọn chúng đều khiếp sợ bỏ đi. Huyền thoại này của người Nhật đã mô tả lại những nỗi khổ đau mà ngay cả một đứa trẻ nhỏ bé ngây thơ vô tội cũng phải gánh chịu ở thế giới bên kia và chỉ có Bồ-tát Ðịa Tạng là người duy nhất đã cứu vớt những linh hồn bé nhỏ đó.
Người ta không biết nguồn gốc của huyền thoại về dòng sông Nại Hà được phát xuất từ đâu. Có thể là bắt nguồn từ truyện Thập Ðiện Diêm Vương trong các cuốn kinh Ngọc Lịch Minh Kinh của người Trung Hoa, xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VIII, nói rõ chi tiết cuộc hành trình về bên kia cõi chết mà mỗi người phải trải qua. Theo niềm tin của người Trung Hoa thì trong tuần lễ thứ hai của giai đoạn thân trung ấm, mỗi linh hồn đều phải vượt qua dòng sông Nại Hà này. Có ba cách để đi qua sông. Người nhiều công đức thì thong dong đi qua cầu. Kẻ ít công đức hơn thì được phép lội qua ở chỗ cạn. Kẻ không có chút công đức nào lại mang nhiều tội ác thì phải lội qua con sông với dòng cuồng lưu chảy xiết đầy sóng to gió lớn. Ða số đều bị chết đuối. Những người vượt thoát qua được dòng sông Nại Hà đều lần lượt tùy theo tội ác nặng nhẹ sẽ được Thập Ðiện Diêm vương phân xử, kết án và tống vào các cửa ngục. Ðến cửa ngục thứ mười tức là cửa ngục cuối cùng, cũng là nơi mà tội nhân phải gánh chịu những hình phạt nặng nề nhất, Bồ-tát Ðịa Tạng xuất hiện bảo với Diêm Vương cho tội nhân được giảm nhẹ tội. Bởi vì các vua Diêm Vương đều kính nể Bồ-tát Ðịa Tạng, thế nên nếu chỉ cần tìm ra một điểm tốt nhỏ nhất của tội nhân, vua Diêm Vương vâng lời Bồ-tát Ðịa Tạng sẵn sàng cho họ được hưởng án giảm nhẹ tội.
Chính vì tin tưởng vào dòng sông Nại Hà này cũng như vào Bồ-tát Ðịa Tạng mà người Nhật Bản trong hàng thế kỷ qua đã xây dựng lên rất nhiều đền đài, lăng tẩm để thờ phượng Ngài dọc theo các bờ sông hay các ghềnh đá bên cạnh bờ biển, mà một địa điểm nổi tiếng là “Sai (Nại Hà) no kawara of Numa no Uchi” được xây dựng từ thời Edo (Uế Thổ). Tại đây, những người cha mẹ đau khổ vì mất con đã đến sắp xếp những mộ tháp bằng đá cuội, hoặc đặt vào đó những viên đá nhằm tưởng niệm những đứa con đã qua đời trước bức tượng của Bồ-tát Ðịa Tạng. Có nơi người ta sắp xếp hàng trăm bức tượng nhỏ khuôn mặt của Bồ-tát Ðịa Tạng cùng với đồ chơi trẻ con xen kẽ bên cạnh những hòn đá tưởng niệm. Lâu ngày, những mộ tháp càng lớn dần lên do những người tin tưởng đến viếng thăm bỏ thêm vào những viên đá, không phải chỉ để tưởng nhớ đến những đứa con thân yêu của mình mà cho cả những linh hồn của những trẻ thơ bất hạnh đã đi qua cõi đời này kể cả những trẻ đã chết ngay từ lúc chưa sinh.
Bồ-tát Ðịa Tạng, như đã nói ở trên, không phải chỉ là vị Bồ-tát bảo vệ trẻ con mà theo truyền thuyết của Nhật Bản, đặc biệt là dưới thời đại Hean, đã xuất hiện dưới hình dạng của một đứa trẻ. Triều đại Hean có thể được coi như là một triều đại đen tối trong lịch sử Nhật bản. Chiến tranh, xã hội rối loạn, tai ương và dịch bệnh lan tràn khắp nơi tạo nên bao thảm cảnh đau thương khốn khổ cho mọi người. Những tín đồ Phật tử thuần thành tin rằng đây là giai đoạn mạt pháp đã đến và trước những thảm cảnh này, may ra chỉ có những năng lực thần linh mới có thể cứu vãn được. Thế là người ta dốc lòng tin tưởng vào năng lực cứu độ của Bồ-tát Ðịa Tạng, và câu chuyện đã được truyền tụng như sau:
Dưới triều đại của Hoàng đế Go-Ichido, bệnh đậu mùa bộc phát và lan tràn nhanh chóng. Lưỡi hái của tử thần đã cuốn đi không biết bao nhiêu là sinh mạng. Nó không chừa bỏ bất cứ ai, bất kể quan hay dân, người quý tộc hay kẻ bần hàn. Trước nỗi khổ đau lớn lao này của nhân sinh, với lòng từ bi vô lượng, một nhà sư tên Ninko không biết làm cách gì khác hơn là cầu nguyện đến sự giúp đỡ của Bồ-tát Ðịa Tạng. Ðêm đó trong giấc mơ, nhà sư Ninko trông thấy một đứa trẻ với khuôn mặt thanh tú xuất hiện, nói với Ngài: “Nay thì nhà ngươi đã thấy rõ sự vô thường của kiếp sống”.
Sư Ninko trả lời: “Vâng, những người tôi vừa mới gặp mới nói chuyện với họ hồi sáng đây, tối lại đã mất rồi. Ngay cả chúng ta đang hạnh phúc hôm nay nhưng ngày mai những khổ đau, thương tâm sẽ xảy đến. Không có gì là vĩnh cửu.”
Ðứa trẻ mỉm cười: “Không có gì để phải than trách trước những đau thương của kiếp sống. Có lúc nào mà con người lại không có những khổ đau? Nếu một người muốn giải thoát khỏi những nỗi khổ đau, họ nên nghe theo những lời dạy của Bồ-tát Ðịa Tạng”.
Sư Ninko tỉnh giấc và vội vàng chạy đến tìm Kojo, nhà điêu khắc tượng nổi tiếng ở địa phương và nhờ ông ta đúc một pho tượng Bồ-tát Ðịa Tạng. Khi bức tượng hoàn thành, sư Ninko tổ chức một buổi lễ khánh thành và thuyết giảng một thời pháp về giáo lý và công năng của Bồ-tát Ðịa Tạng. Tăng chúng và quần chúng Phật tử hoàn toàn chuyển động bởi thời pháp này và hết lòng quy ngưỡng vào Bồ-tát Ðịa Tạng. Tất cả những người có mặt tại ngôi chùa, và tất cả những ai đến tham dự buổi lễ khánh thành này đều thoát qua khỏi kiếp nạn đậu mùa. Những kẻ kiêu hãnh, không tin tưởng đều bị cuốn đi trong cơn dịch bệnh này. Bệnh đậu mùa cũng đã chấm dứt không lâu sau đó, những cư dân do lòng tin tưởng vì được cứu thoát trong tai ương vừa qua vẫn tiếp tục tôn sùng và thờ phượng Bồ-tát Ðịa Tạng.
Một câu chuyện nổi tiếng khác kể lại nỗi bất hạnh của một đứa trẻ lâm vào tình trạng mẹ ghẻ con chồng:
Nếu như trong kho tàng truyện cổ của Việt Nam, ta có chuyện Phạm Công - Cúc Hoa với bà kế mẫu Tào Thị như là một khuôn mẫu điển hình của những bà mẹ ghẻ độc ác nhất ở trên thế gian này thì Nhật Bản cũng có một câu chuyện tương tự như thế, nhưng được lồng trong bối cảnh hành hoạt của vị Bồ-tát chuyên cứu độ những trẻ thơ bất hạnh của Ngài. Truyện kể rằng khoảng một ngàn năm trước đây, tại một ngôi làng nhỏ tên là Anwa có một người phụ nữ rất hiền lương mộ đạo, hết lòng sùng kính Bồ-tát Ðịa Tạng. Vì nhà nghèo cho nên bà luôn luôn ao ước và vẫn thường cầu nguyện làm sao có được một pho tượng Bồ-tát Ðịa Tạng để thờ phượng ở trong nhà. Một ngày nọ, trong khi đang giặt giũ ở dòng sông trước mặt nhà, bà nhặt được một pho tượng Ðịa Tạng bằng gỗ trôi tấp vào chỗ mình đang đứng. Xiết đỗi vui mừng, bà vội vàng mang pho tượng về nhà và từ đó ngày hai buổi sớm tối công phu thờ lạy Ngài rất nghiêm chỉnh. Vì chưa có con thế nên mỗi lần cúng lạy bà cũng không quên khấn vái cùng với Bồ-tát Ðịa Tạng giúp cho bà có một đứa con trai. Không bao lâu, quả nhiên bà thọ thai và sanh được một đứa con trai. Nhưng bất hạnh thay, khi đứa bé tròn bốn tuổi thì người mẹ lâm bạo bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau đó thì người cha tục huyền với một người đàn bà khác. Bà này là một người rất hung dữ và độc ác và đứa con chồng thường xuyên là nạn nhân cho những cơn thịnh nộ của bà kế mẫu hung ác này.
Ðứa bé ngay từ hồi nhỏ do đã chịu ảnh hưởng của mẹ trong việc thờ cúng Bồ-tát Ðịa Tạng, cho nên khi mẹ mất đi cũng không hề quên và xao lãng nghi lễ này, tuy nhiên do sợ bà mẹ ghẻ đánh chửi, nó đã phải làm trong âm thầm lén lút. Một hôm trong khi người cha có việc phải rời khỏi nhà đi ra tỉnh, nhân lúc bà mẹ ghẻ đang ngủ trưa, đứa bé vào bếp kiếm được một ít cơm nguội vội vàng đem dâng cúng lên bàn thờ của Bồ-tát Ðịa Tạng và mẹ mình. Quỳ trước bàn thờ, lòng nhớ thương mẹ không nguôi đã làm đứa bé bật khóc lên nức nở. Tiếng khóc của đứa trẻ làm bà mẹ ghẻ tỉnh giấc và khi trông thấy đứa trẻ đang cúng lạy mẹ nó, bà liền nổi cơn thịnh nộ và trong khi điên tiết lên vì giận dữ, bà đã túm lấy nó quẳng vào nồi cháo heo đang sôi sùng sục trên bếp lửa.
Trong lúc này, người cha đang đi đường bỗng dưng cảm thấy lòng dạ bồn chồn nóng lên như lửa đốt, khiến ông không thể cất bước được nữa và như có điều gì thúc dục buộc ông phải quay trở về nhà. Ðến đầu làng, ông bỗng gặp một nhà sư cõng một đứa bé ở sau lưng đang than khóc thảm thiết, tiếng khóc nghe rất quen thuộc. Không nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng khóc của chính con ông! Tuy vậy, người cha vì chưa thấy mặt nên còn bán tín bán nghi hỏi nhà sư: “Thầy ơi, đứa trẻ nào đang khóc vậy?” Nhà sư trả lời: “Ta đã đổi mạng ta cho đứa trẻ này khi người mẹ ghẻ của nó đang tìm cách giết nó. Ngươi hãy tìm kẻ nào đáng tin cậy để nuôi dưỡng và giáo dục đứa bé này.” Nói xong nhà sư trao đứa bé vào tay của người cha đang kinh hoàng run rẩy. Mang ơn nhà sư, người cha vội hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đang trú trì ở chùa nào?” Nhà sư trả lời: “Ta ở gần đền thờ vua Thập Ðiện”, xong biến mất. Sau khi đem con gởi nhờ ở nhà ông bà nội, người cha quay trở về nhà và thấy bà vợ đang ra sức đun củi vào bếp, trên đó là một nồi nước đậy nắp đang sôi. Thấy chồng xuất hiện bất ngờ, bà ta có vẻ bối rối và tìm cách dập tắt ngọn lửa. Anh ta liền hỏi vợ: “Thằng con tôi đâu rồi sao không thấy?” Bà vợ gian xảo lúc này bèn giả bộ đau thương, sụt sùi kể lể: “Thấy không có ông ở nhà, thằng nhỏ bỏ chạy ra chơi ở cạnh bờ sông không may sẩy chân rớt xuống sông, nước cuốn mất xác rồi.” Người chồng không nói gì vội tiến đến cạnh nồi nước và mở nắp ra. Nổi ở trên mặt nồi cháo heo đang sôi sùng sục là pho tượng của Bồ-tát Ðịa Tạng, pho tượng ở trên bàn thờ mà người vợ trước của ông đã thờ cúng hằng ngày! Bây giờ thì anh ta mới hiểu hết ý nghĩa lời của nhà sư nói “Ta đã đổi mạng ta” và biết rằng nhà sư mà ông vừa mới gặp không ai khác hơn chính là Bồ-tát Ðịa Tạng đã hóa hiện ra để cứu con mình. Chán nản trước tình đời, cảm động trước sự linh ứng nhiệm mầu của Bồ-tát Ðịa Tạng, người đàn ông xuống tóc đi tu và trở thành một nhà sư suốt đời tận tụy thờ phượng Bồ-tát Ðịa Tạng.
(còn nữa)
Ghi chú:
(5) Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm Thứ Tám, “Các Vua Diêm La Khen Ngợi”, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh.
(6) Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm Thứ Sáu, “Như Lai Tán Thán”, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh.
(7) Xem “Jizo Bodhisattva, Modern Healing & Traditional Buddhist Practice”, Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002. P. 73.
BỒ TÁT ÐỊA TẠNG Vị Bồ-tát bảo vệ trẻ em trong Truyền Thống Phật Giáo Nhật Bản ^
Tâm Hà
(tiếp theo và hết)
3. Bồ-tát Ðịa Tạng:
Vì hạnh phúc của trẻ thơ!
Tháng Bảy là tháng của Bồ-tát Ðịa Tạng. Truyền thống Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam đã chọn ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan và theo niềm tin tưởng của Phật tử Á Ðông, đây cũng là ngày “Xá Tội Vong Nhân” tức là ngày các vua Diêm vương mở cửa ngục cho các hồn ma được thong thả rong chơi, hoặc những hồn ma đói khát có cơ hội được đi kiếm ăn sau một năm trời bị dày vò thiêu đốt bởi đói khát trong địa ngục. Trong khi đó, Phật giáo Nhật Bản chọn ngày 24 tháng Bảy Âm lịch là ngày vía của Bồ-tát Ðịa Tạng và cũng là ngày lễ hội truyền thống của trẻ thơ. Ðây là ngày hội dành cho trẻ em dưới mười ba tuổi cùng với những người lớn cùng tham dự để bày tỏ lòng biết ơn đến Bồ-tát Ðịa Tạng, cũng như nhắc nhở đến sứ mệnh thiêng liêng của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người.
Theo thông lệ, sáng ngày 24, một cái rạp được dựng lên trước đền thờ hay bức tượng của Bồ-tát Ðịa Tạng. Nếu là một nơi dân cư đông đúc, ngôi nhà gần nhất cạnh đó sẽ được tăng cường thêm để có đủ chỗ cho lễ hội. Trong những ngày này, bàn thờ và tôn tượng của Bồ-tát được lau chùi sạch sẽ, sau đó người ta quấn những lá cờ hai màu đỏ trắng chung quanh tôn tượng của Ngài. Trước mỗi nhà, người ta treo những lồng đèn màu đỏ trên đó ghi giòng họ của mỗi gia đình. Những lồng đèn này sẽ được thắp sáng vào buổi tối tạo nên một màu hồng lung linh huyền ảo trong suốt các ngả đường trong đêm lễ hội.
Từ sáng sớm tinh mơ, dân chúng địa phương mang hoa quả, trà bánh, và nhang đèn đến để cúng lễ Bồ-tát Ðịa Tạng. Sau đó trẻ con tụ hội và vui chơi ăn uống suốt ngày. Tối đến, người ta tham dự những cuộc đốt pháo và ăn dưa hấu. Cha mẹ và trẻ con trong những bộ y phục kimono sặc sỡ cổ truyền cùng tham dự vui chơi và đây cũng là dịp giao tế làm nẩy nở tình thân giữa bà con xóm giềng ở trong vùng. Lễ hội “Jizo (Ðịa Tạng) bon” này cũng là dịp mà con trẻ tận hưởng những ngày hè tươi đẹp cuối cùng vì sau đó chúng bắt đầu trở lại trường học.
Tuy là một ngày hội dành cho thiếu nhi vui chơi nhưng Phật tử Nhật Bản đã biến dịp này thành một ngày lễ hội thấm đượm ý nghĩa tích cực của tôn giáo. Ðây là một tập tục rất hay mà người Phật tử Việt Nam không thể không học tập. Ta đã có sẵn ngày Tết Nhi Ðồng-vào dịp lễ Trung Thu-nhưng từ trước đến nay, ngày này chỉ là ngày để cho trẻ con vui chơi thuần túy. Nhưng đâu có phải bất cứ trẻ thơ nào trên cõi đời này cũng có những diễm phúc được vui chơi như thế? Trong xã hội chúng ta, và trên thế giới này vẫn còn rất nhiều những trẻ thơ thiếu ăn thiếu mặc, sống lăn lóc ở đầu đường xó chợ, suốt đời không hề được diễm phúc cắp sách đến trường. Có không biết bao nhiêu những trẻ thơ bị hành hạ, sách nhiễu (child abuse) đến thương tật hay mất mạng. Có những bé gái bất hạnh bị cha mẹ bán tiết trinh hay xô đẩy vào chốn lầu xanh để kiếm chút tiền nhỏ sống qua ngày. Và còn biết bao nhiêu thân phận của trẻ thơ bị vùi dập trong những cuộc chiến tang thương. Thế nên, ngày Tết Trung Thu đối với người Phật tử Việt Nam, đặc biệt đối với những tổ chức thanh thiếu niên Phật tử, cũng chính là ngày giáo dục cho trẻ thơ tinh thần Ðịa Tạng, nghĩa là dạy cho trẻ con tinh thần vị tha, biết yêu thương, đùm bọc và chia sẻ, nhờ vậy khi lớn lên, hiểu được ý nghĩa của yêu thương, chúng sẽ không thể nào trở thành những người gieo rắc tai ương cho xã hội.
Chăm lo cho hạnh phúc của trẻ thơ chưa đủ, người Phật tử mang tinh thần Ðịa Tạng, mang sứ mệnh Ðịa Tạng còn phải biết cách chăm lo cho những linh hồn, những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu, hoặc vì lý do nào đó đã chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ. Một trong những cách chăm lo tích cực nhất là ngăn ngừa tình trạng phá thai vì phá thai cũng là một tệ nạn xã hội. Ðể ngăn ngừa tình trạng nhân mãn, trên thế giới-đặc biệt là tại Trung Quốc và Việt Nam-hàng năm đã có đến hàng triệu sinh mạng đã bị bóp chết ngay từ khi còn là một cái bào thai. Thế nhưng, đạo đức Phật giáo quan niệm như thế nào về vấn đề này?
Trong dịp viếng thăm Âu Châu hồi gần đây của đức Ðạt-lai-lạt-ma, khi tiếp xúc với những nhà trí thức phương Tây, một số nhà khoa học Pháp đã nêu lên câu hỏi: “Thưa Ðức Ðạt-lai-lạt-ma, Ngài tin rằng vào thời điểm nào trong quá trình thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa những hạt mầm tinh thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?”
Ðức Ðạt-lai-lạt-ma đã trả lời rằng:
“Phật giáo quan niệm rằng ý thức xâm nhập vào sinh vật ngay từ phút giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ đó mà phôi bào vẫn được coi như là một sinh vật. Cho nên chúng tôi xem hành động phá thai cũng giống như việc cướp đi sự sống của một con người và dĩ nhiên đây không phải là một việc làm chánh đáng.” (8)
Quan niệm này đã được Ngài khẳng định lại một lần nữa khi người ta nêu lên câu hỏi về vấn đề kiểm soát dân số:
Thưa Ngài, quan niệm của Ngài như thế nào về việc kiểm soát sinh sản và Ngài có ý kiến gì về việc phá thai?
Ngài đã trả lời như sau: “Ðể trả lời cho câu hỏi này, tôi thường giải thích theo quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng, đời sống của tất cả mọi loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc biệt là con người, đều rất quý giá. Nếu nhìn vấn đề như thế thì tất cả mọi hình thức kiểm soát sinh sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy nhiên, những sinh mạng quý giá đó nay đã đạt đến một số lượng đáng kể, thế nên chúng ta không thể không khẩn thiết kêu gọi mọi người phải quan tâm đến vấn đề hạn chế sinh sản một cách nghiêm túc, vì đó là phương cách duy nhất để hạn chế tình trạng gia tăng dân số. Như tôi đã từng đề cập, khi mà tài nguyên của trái đất đang khô kiệt dần, tôi chấp nhận chuyện hạn chế sinh sản một cách bất bạo động. Còn phá thai là một chuyện khác, đó là một hành động sát nhân. Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rõ rằng ta không được giết hại con người, cho dù đó là một bào thai.” (9)
Trong tinh thần đó, cái chết của một bào thai vẫn được xem như là cái chết của một con người và cần có những nghi lễ xứng đáng. Ðối với những người đã chết, Phật giáo chúng ta có nghi thức cầu siêu, nhưng nghi thức cầu siêu chưa nói lên hết ý nghĩa đặc biệt của những người chết trẻ, là đối tượng đặc biệt quan tâm của Bồ-tát Ðịa Tạng theo truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Ðể tưởng niệm những trẻ thơ chết khi còn ở trong bụng mẹ (sẩy thai, phá thai,...) hoặc chỉ trải qua một vài năm ngắn ngủi của đời người, Phật giáo Nhật Bản có nghi lễ tôn thờ Ðịa Tạng Mizuko (Ấu Thủy) - mà hình tượng là một nhà sư bồng một đứa trẻ ở trên tay và một hoặc hai đứa trẻ đang quấn quít dưới chân Ngài - vốn rất phổ thông trong đại chúng. Theo niềm tin tưởng từ lâu đời, người Nhật cho rằng mọi sinh vật đều được sinh ra từ lòng biển cả, kể cả đảo quốc và cư dân của đất Phù Tang, Ấu Thủy (Mizuko) vì thế được dùng để diễn tả phôi bào của những sinh vật đang trôi nổi bình bồng trong một thế giới đầy nước, chờ đợi được sinh ra đời. Trước thế kỷ thứ 20, tỉ lệ tử của trẻ con ở Nhật Bản ở một mức độ rất cao, có không đến 50% trẻ em sống sót đến 5 - 7 tuổi. Tuy nhiên đây không phải là lý do chính để người Nhật tạo ra biểu tượng Ðịa Tạng Mizuko mà truyền thống nghi lễ này chỉ mới hình thành trong khoảng thập niên 1960, khi dân Nhật trãi qua một thời kỳ khó khăn về kinh tế, hậu quả của Ðệ Nhị Thế Chiến. Trong điều kiện này, chính phủ Nhật Bản khuyến khích mỗi gia đình lý tưởng chỉ nên có hai con và phá thai vì thế là một trong những biện pháp được sử dụng hợp pháp để đạt đến chỉ tiêu này.
Nghi lễ tưởng niệm trẻ thơ phối hợp với tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng của truyền thống Phật giáo Nhật Bản đã được Ni sư Jan Chozen Bays Roshi (10) du nhập vào Hoa Kỳ, canh cải theo một mô thức thích hợp với con người, thời đại và quốc độ rất đáng được cho chúng ta lưu ý. Là một Bác sĩ Nhi Khoa, thọ Tỳ-kheo giới năm 1979 theo một dòng Thiền Nhật Bản, Ni sư Chozen là một nữ Tăng sĩ tiên phong người Hoa Kỳ mang tinh thần Ðịa Tạng thể nhập vào cuộc sống đời thường, áp dụng vào lãnh vực bảo vệ và chăm sóc các trẻ em bị sách nhiễu (child abuse) tại Portland, bang Oregon (HK) trong suốt hai mươi lăm năm qua, đồng thời với tư cách là một Tu viện trưởng một Trung tâm Thiền học, Bà đã tổ chức những buổi lễ tưởng niệm cho thân nhân những người mất mát con em của họ theo một nghi thức mà những người ngoài Phật giáo cũng có thể tham dự được, theo một kiểu mẫu và trình tự như sau:
Ðịa điểm
Ðịa điểm hành lễ là những khuôn viên có thờ tôn tượng của Bồ-tát Ðịa Tạng, nơi mà hình tượng của Ngài cũng như các vật tưởng niệm được bảo quản không bị hư hại bởi bất cứ thời tiết nào và là nơi mà sau này thân nhân có thể dễ dàng đến thăm viếng và tỉnh tọa để tưởng nhớ đến con em mình.
Những người tham dự
Nghi lễ chỉ dành cho thân quyến và những Phật tử tham dự buổi lễ. Không chấp nhận phóng viên ngoại trừ họ là Phật tử và tham dự buổi lễ từ đầu chí cuối. Tính cách tế nhị, riêng tư của người tham dự được tuyệt đối tôn trọng và do đó không cho phép chụp hình.
Chủ trì buổi lễ
Vì đây là lễ tang hay là lễ tưởng niệm theo truyền thống Phật giáo, ít nhất phải có một Tăng sĩ Phật giáo tốt nhất là có hai vị chủ trì buổi lễ. Vị Tăng sĩ chủ trì này nên là người có kinh nghiệm và được huấn luyện để có thể thích nghi với những buổi lễ đông đảo tang quyến của nhiều gia đình khác nhau cùng tham dự.
Chuẩn bị cho buổi lễ
Nên có một phòng riêng để cho tang quyến chuẩn bị những gì cần thiết trước cho buổi lễ, nơi mà thân nhân có thể an ủi lẫn nhau cũng như hoàn tất những phẩm vật tưởng niệm. Ðây cũng là nơi mà người tham dự có thể nghỉ ngơi, dùng trà, cà phê... sau buổi lễ.
Giới thiệu nghi lễ
Người trách nhiệm tổ chức cũng nên thông báo một vài chi tiết ngắn gọn về những gì sẽ xảy ra trong buổi lễ, kể cả những yêu cầu chung mà những người tham dự nên chấp hành. Tốt hơn hết là chương trình về buổi lễ nên được in sẵn và phát ra cho tất cả những người tham dự. Sự tích của Bồ-tát Ðịa Tạng và ý nghĩa của buổi lễ cũng nên được giới thiệu trong chương trình nghi lễ này.
NGHI THỨC TIẾN HÀNH TƯỞNG NIỆM
Vị Chủ Lễ:
Luật nhân quả không ngừng diễn tiến
Thực tại xuất hiện dưới mọi dạng thể hình
Nếu như bất cứ ai hiểu rõ định luật này
Sẽ tự giải phóng mình ra khỏi mọi khổ đau.
Tất cả chúng sanh xuất hiện trên thế gian này, vốn từ Nhất Thể
Rồi sẽ đi qua cõi đời này trong một vài giây phút hay tháng năm ngắn ngủi
Ðể trở về lại Bản Thể Uyên Nguyên từ lúc chưa sinh
Cuộc đời chúng ta chỉ là những đợt sóng cồn
Trong đại dương của Bản Thể Chân Như
Vốn không sanh và không diệt
Hôm nay chúng ta tụ hội cùng nhau ở đây để tưởng niệm đến những con em của chúng ta vừa mới qua đời cũng như để bày tỏ và chia xẻ niềm yêu thương và hỗ trợ đến cha mẹ, thân quyến và bằng hữu của tất cả tang quyến.
Tất Cả Cùng Ðọc:
- Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh (1 lần);
- Kinh Từ Bi (1 lần);
- Chú Ðịa Tạng: OM. HA-HA-HA-VIS-MA-YE. SVA-HA (9 lần)
Vị Chủ Lễ:
Bản Thể Chân Như bàng bạc khắp tận cùng Vũ trụ
Ðang hiện hữu cùng chúng ta tại đây, ngay tại phút giây này.
Bằng cách tụng đọc Tâm Kinh, Từ Bi Kinh và Ðịa Tạng Thần Chú, chúng ta dâng lời nguyện cầu đến:
(Tên và pháp danh những trẻ em vừa qua đời)
Cùng tất cả pháp giới chúng sanh trong lục đạo luân hồi,
Cầu cho ánh sáng của đạo mầu xuyên qua bóng tối của vô minh.
Cầu cho mọi nghiệp lực bị xóa tan để đóa tâm hoa bừng nở trong mùa Xuân vĩnh cửu.
Cầu cho tất cả chúng ta cùng nhau tu tập, đạo quả viên thành.
Tất cả cùng đọc:
Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ-tát ma ha tát.
Nam mô Thanh tịnh Đại hải Chúng Bồ-tát ma ha tát.
Chấm dứt buổi lễ.
OM. Ha-Ha-Ha-Vis-Ma-Ye. Sva-Ha.
(Hết)
Chú thích
(8) Beyond Dogma, HH the Dalai Lama. Rupa & Co., 1996. P. 11.
(9) Beyond Dogma, HH the Dalai Lama .Rupa & Co., 1996. P. 43.
(10) Ni sư Jan Chozen Bays Roshi tốt nghiệp Ðại học Y Khoa San Diego, CA, 1972, hiện là Tu viện trưởng Larch Mountain Zen Center, Portland, Oregon.
|