MỘT CHUYẾN TRỞ VỀ
Lam Khê
Tôi ra đi rồi hối hả trở về. Hay nói khác đi là vừa trở về, tôi lại phải vội vã ra đi. Những chuyện đến đi như thế thường chưa bao giờ được tính toán trước. Về ý nghĩa thì không khác, khác chăng là qua cách nhìn cách nghĩ theo từng sự kiện đến đi trong suốt cuộc hành trình nhiều rong ruỗi của mình..
Tôi phải trở về Sài Gòn trên một chuyến bay. Đó là điều nằm ngoài dự đoán của mọi người. Những tưởng sự trở về sẽ kịp nhìn thấy Sư Bà trước khi người viên tịch, vậy mà sự việc tệ hại hơn nhiều so với điều mình dự tính. Một mình trở vào Đằ Nẵng. Suốt chiều hôm trước, quý thầy đã chật vật chạy tìm mua vé xe không được, bèn đưa tôi ra xa lộ ngồi chờ suốt hai tiếng mà chẳng biết xúi quẩy thế nào vẫn không có được một chiếc xe ca xuôi vào Nam. Đến tối một phật tử lại chở tôi ra sân bay Phú Bài hy vọng có vé chờ, cuối cùng thì đến sáng hôm sau tôi đành phải ngồi xe từ Huế ra sân bay Đằ Nẵng, với sự tận tình của Thầy Tuệ- nhờ một người cháu trong đó đặt mua vé giùm. Không thể nôn nóng hơn được, tôi chỉ còn biết niệm Phật và chờ cho thời gian qua mau để mình nhanh chóng trở về.
Khi đã chấp nhận với những gì xảy ra- như lời thầy trưởng đoàn của chuyến du khảo mà tôi được hân hạnh dự vào đã nói_ “Số cô như vậy mà”- lòng tôi trở nên thanh thản hơn và hướng mọi tầm nhìn vào cảnh vật bên ngoài như để tận hưởng những giây phút còn lại trên chuyến trở về bất thường có phần vội vả này. Trước mắt tôi lại ẩn hiện những dãy núi nhấp nhô xanh rì trong ánh nắng ban mai rực sáng, rồi từng cánh đồng phố xá xóm làng, những thung lũng thẩm màu sương khói vụt qua nhanh chóng. Còn kia là bờ biển Lăng Cô nằm bên đèo Hải Vân thơ mộng như cuốn hút lòng người vào chỗ tận cùng mênh mông của trời đất. Bầu trời trong vắt, chỉ thỉnh thoảng xuất hiện vài gợn mây xám vẩn vơ. Dường như trời cũng chiều lòng người trở lại, không đượm buồn mà vẫn sâu lắng một màu khói biếc.
Ngồi chờ nơi sân bay suốt một ngày trong bầu trời đầy nắng nóng, -chả bù với mấy hôm trước mưa tầm tả- tôi vẫn không thể nào kiếm được chiếc vé bay trước lúc năm giờ chiều. Cảm giác đói mệt chỉ thoáng qua, sự mong đợi trở về cũng vơi nhẹ. Giờ nầy ở chùa chắc nhiều mọi người đang trông tôi lắm, còn tôi thì cứ bình thản ngồi đây ngắm nhìn dòng người qua lại trong thế chẳng đặng đừng. Người ta bảo trong cái rủi thường có cái may, chẳng biết lúc này tôi đang gặp may hay rủi, mà sao đoạn đường trở về của mình lại lắm chông chênh đến vậy. Thế là một lần nữa tôi lại vay thêm món nợ ân tình với xứ Huế- Ba năm trước, lần đầu tiên về quê sau mấy mươi năm xa cách, tôi cũng chỉ ở được dăm bữa dự đám giỗ người bác dâu, rồi quay vào Sài Gòn ngay vì việc chùa. Lần này chắc mẩm sẽ được mục kì sở thị hết các Cung điện và Lăng Tẩm một thời vang bóng của đất thần kinh. Hoặc sẽ ngồi thuyền trên dòng sông Hương thơ mộng mà ngắm nhìn về núi Ngự qua làn sương đêm mờ ảo. Aáy vậy mà… vừa đặt chân đến Huế tôi lại phải ra đi. Lòng tôi đến với Huế sao mà vội vàng và xa cách đến thế. Hởi người con của xứ miền Trung sỏi đá.
Mang tâm trạng chờ đợi nhưng lòng tôi vẫn thư thả đến lạ. Cũng buồn vì không trở về sớm cho mình bớt ray rứt, cũng tiếc vì không đi cho hết chuyến hành trình còn dài ngày qua các tỉnh miền Trung khúc ruột. Nhưng mọi việc rồi cũng sẽ qua, điều đọng lại trong tôi là chút tình người nơi sân ga cuộc sống. Nơi mà tôi vừa trải qua, chỉ cảm nhận được đôi chút qua hơi thở mong manh của đời người. Tôi đối với quê hương mình chưa bao giờ trọn nghĩa, vậy mà xứ Huế lúc nào cũng rộng lòng đón nhận những đứa con đi xa trở về thăm dù chỉ là trong giây lát. Những người chưa từng quen biết, họ luôn sẵn lòng giúp đở chia sẻ với tôi, không hẳn vì cám cảnh kẻ lỡ đường quá bước, mà đó là chút nghĩa tình chân thật, một sự nhiệt tình rất trong sáng của người ở chốn non nước hữu tình- như Nga- nhân viên sân bay-cháu Thầy Tuệ, niềm nở ra chào hỏi khi tôi đến- và cô nhân viên trong nhà hàng bụng mang dạ chữa, khi tôi vào gọi dĩa cơm trắng với chén nước tương đã không lấy tiền lại năng nỗ vào tận sân bay nhờ người quen kiếm vé cho tôi đi sớm. Người chạy xe ôm từ bến xe Đà Nẵng biết tôi phải đợi đến chiều mới có vé cũng tận tình chỉ vẻ nhiều điều. Chú Phật tử đưa tôi đến sân bay Phú Bài, rồi chở về trong đêm tối mà vẫn hăm hở muốn cho tôi xem qua một vòng trong thành nội . Tất cả mọi người-kể cả quý thầy cô ở Huế, dù chỉ mới gặp lần đầu và chắc không ai biết tôi là người đồng hương-, đều tận tình tìm mọi cách để tôi được nhanh chóng trở về. Huế vừa trải qua những ngày mưa dầm rồi lại nắng nóng. Tôi trở vào Nam mang theo cả khúc sầu biệt ly hương chan chứa tình người ý đạo.
Cuối cùng thì tôi cũng đã lên được chuyến bay để trở về, dù có hơi muộn màng, nhưng về được vẫn là hơn không. Tôi đang trở về hay là một lần nữa lại vội vả rời bỏ vùng quê cha đất tổ. Ngày trước, đứa bé gái năm tuổi theo cha mẹ đi máy bay vào Nam đã khóc ròng vì sợ chứ nào có biết gì đâu-Bây giờ hơn nửa đời hư lại bước lên máy bay, coi như là lần đầu vậy. Chẳng còn đâu cái cảm giác sợ hãi của thời thơ dại, ý tưởng rời xa quê cũng không thật rõ ràng. Tâm hồn già cỗi theo tháng năm dài lưu lạc, vậy mà vẫn chưa đánh mất đi cái chất hồn quê còn hằn sâu đâu đó trong cõi lòng. Hơn thế nữa, một chút dư vị tình người mà tôi vừa đón nhận sẽ là món quà tinh thần đầy ý nghĩa trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. Và biết đâu chừng, cũng sẽ giúp tôi dứt ra được cái mặc cảm về một thân phận lưu lạc bỏ quên nguồn cội. Một chuyến đi xa không đơn thuần vì ham vui, để lúc quay về, đa mang thêm tâm trạng của kẻ thọ ân chưa một lần báo đáp. Một miền quê đã xa khuất nhiều năm trong trí nhớ, vẫn mãi mãi là khoảng trời riêng cho những gã cùng tử lang thang như tôi tỏ chút lòng hoài vọng đến như thâm tình cố cựu chi giao.
Ngồi trên chuyến bay trở về, lòng tôi cứ dâng lên cái cảm giác nao nao thú vị lẫn bỡ ngỡ như người nhà quê lên tỉnh, mà chính mình cũng phải bật cười. Tôi không biết làm gì khác hơn là quay ra cửa sổ máy bay để ngắm nhìn trời xanh mây trắng trong buổi chiều tàn rực nắng. Bầu trời trong xanh toả sáng nằm bên dưới mấy vạt nắng vàng ươm, tợ như một dòng chảy pha lê khổng lồ trong suốt. Có khi mây trắng tụ lại dày đặc như bông tuyết, có lúc lại tản mác tạo thành muôn hình sắc, thật chẳng khác nào bức tranh vân cẩu biến đổi khôn lường. Bên trong khoang máy bay dường như tôi vẫn nghe rõ những âm thanh ồ ồ phát ra, tiếng cô tiếp viên hướng dẫn việc mặc áo phao, cùng nhiều những động lạ, cả khi máy bay lên xuống làm cho cơ bụng như co thắt lại, rồi hai lỗ tai cứ bùng bùng. Nhưng tâm trí và ánh mắt tôi lúc này chỉ để hết ra bên ngoài khung cửa kiếng. Từ trên độ cao chót vót, Tôi nhìn thấy hết những làng quê xa tít nơi phía chân trời, và nghĩ đó cũng là một phần quê hương mình đấy. Nơi có bờ biển cát trắng trải dài, có dòng sông hương êm đềm phẳng lặng sớm chiều mà khách nhàn du thích tìm về thưởng ngoạn. Nơi ấy có những đồi núi màu rêu xanh nhấp nhô hùng vĩ mang hồn sắc rất riêng của xứ kinh kỳ. Lúc này tất cả cảnh vật bỗng trở nên nhỏ nhoi, nhỏ đến mức cả miền quê bao la chỉ nằm gọn trong tầm mắt, những ngôi nhà, những chiếc thuyền, cả dòng xe cộ ngược xuôi, các dòng chảy của biển cả sông hồ chỉ còn là những chấm phá nhỏ xíu in trên những tấm thảm xanh trải dài của không gian. Miền quê hương tôi đó, dù rất bé nhỏ lại gập ghềnh sỏi đá và thiên tai bão lụt triền miên, vậy mà ai đi xa cũng mong muốn được trở về, về để lại ra đi, rồi nỗi nhớ thương kia đã dệt nên cho đời biết bao áng văn thơ ký sự thẩm đẩm chất hồn quê hồn đất.
Rời chuyến bay đời thường, tôi lại bước vào những chuyến bay khác theo lộ trình khác của đời sống tu sĩ, mà chuyện tử sinh cơm áo đôi khi cũng làm vướng bận manh áo nâu sòng, chùn bước chân kẻ sĩ. Thế nhưng trên các ngã rẽ của cuộc đời, vẫn không thiếu những trang sách đạo tình để cho tôi được góp chút lòng mình trên đó cũng gọi… là đền ơn tri ngộ với bạn đồng thanh, và cũng là báo đáp chút tình thâm với nơi đã cho mình tiếng khóc chào đời. Một mảnh tình quê, mấy lần xuôi ngược, ai đến ai đi rồi cũng sẽ có một ngày trở về với nơi sâu thẩm nhất của cội nguồn. Một dòng sông, mấy mươi lần rẻ sóng, điểm cuối cùng vẫn là biển cả mênh mông.± |