Những quán tưởng về tân thiên niên kỷ
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Cập nhật: 06:18:00 06/04/2009

NHỮNG QUÁN TƯỞNG VỀ TÂN THIÊN NIÊN KỶ

 

Hôm nay tôi lại được nhìn thấy một số khuôn mặt quen thuộc cũ tuy nhiên đây cũng là lần đầu tiên tôi hân hạnh gặp gỡ đa số qúy vị. Ðiều này cũng chẳng có gì quan trọng bởi vì đi bất cứ nơi đâu tôi cũng luôn luôn có cảm giác là được gần gũi những con người giống như chính bản thân tôi. Hiển nhiên chúng ta đều là những con người trọn vẹn với ý nghĩa của nó, đặc biệt là khi khuôn mặt chúng ta rạng rỡ những nụ cười nói lên những cảm tình chân thật của một con người. Tôi đã nhìn thấy những cảm xúc chân thành đó trên hầu hết những khuôn mặt của mọi người và cho tôi được hân hạnh chia sẻ cùng qúy vị. Cảm giác thân thiện này luôn luôn tràn ngập tâm hồn tôi cùng với ý thức về tính cách nhất thống của nhân loại. Thái độ suy nghĩ này theo tôi, rất là quan trọng bởi vì nó giúp ta nhận ra và chia xẻ những vấn nạn, khổ đau của tha nhân.

Mặc dù nhìn nhân loại như một tổng thể nhưng ta phải công nhận rằng không phải là không có những yếu tố làm chia cách chúng ta chẳng hạn như tín ngưỡng, phong tục tập quán, ngôn ngữ, và văn hoá. Tuy rằng tính cách đa dạng này có thể làm cho cuộc sống phong phú thêm nhưng chúng ta cũng đừng nên quá đặt nặng vào nó vì không khéo sẽ làm tổn thương đến tính cách thống nhất của con người hoặc để rồi phải đối đầu với những vấn nạn vô nghĩa.

Hơn lúc nào hết, thế giới hôm nay đang trên đà gia tăng dân số và sự tiến bộ trên lãnh vực truyền thông làm cho chúng ta trở nên gần gũi với nhau, sự sống còn của nhân loại vì thế phần nào dựa trên mối quan hệ hổ tương giữa những con người. Ðó là lý do tại sao mà hơn lúc nào hết, bây giờ chúng ta phải nhìn nhân loại như một thực thể duy nhất. Những vấn nạn mà chúng ta hiện đang đương đầu đã vượt ra khỏi tầm vóc của cá nhân hay quốc gia. Chúng ta chỉ có thể giải quyết nó bằng nỗ lực của tinh thần chia xẻ trách nhiệm chung.

Thái độ tinh thần của chúng ta có vẻ như hoàn toàn không đáp ứng với những nhu cầu khẩn thiết hiện nay. Bởi thế tốt nhất là chúng ta cần phải nắm vững thực tại để có thể chuẩn bị cho mình một thái độ tinh thần, nếp sống, sinh hoạt tương xứng.

 

NHỮNG SUY NGHĨ VỀ XÃ HỘI HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI  CỦA THẾ GIỚI

 

Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có ưu điểm là đang sống gần gũi với cả hai giá trị Tây phương lẫn Ðông phương, một bên được gọi là những xã hội tiện nghi hưởng thụ còn một bên là những xã hội mang tính bảo thủ truyền thống. Cả hai hiện đang ở giữa một cuộc khủng hoảng đạo đức chưa từng thấy. Xin được nghe ý kiến của Ngài về vấn đề này mà chúng tôi nghĩ là những lời khuyên sẽ mang đến rất nhiều lợi lạc. Chúng tôi cũng rất muốn biết cảm tưởng của Ngài về tương lai của thế giới mà chúng ta đang sống. Tuy nhiên trước tiên, nếu có thể được, xin Ngài vui lòng  phác thảo ra  những nét chính về triết học Phật giáo để chúng tôi dễ dàng trong việc theo dỏi dòng tư tưởng của Ngài.

 

Tôi không bao giờ nghĩ rằng mình là người có khả năng đưa ra những  lời khuyên bảo có thể  giúp cho những ai đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cho mình một giải pháp thoát khỏi những khổ đau tinh thần hay bất cứ những khổ đau nào khác. Ngay chính bản thân tôi, đôi khi cũng cảm thấy mình hoang mang, băn khoăn, lo lắng kể cả những lúc chính mình phải trực diện với những xung đột nội tâm. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để chúng ta cùng nhau chia xẻ những quan điểm khác biệt cũng như những kinh nghiệm cá nhân đa dạng cuả chúng ta.

Tôi thường có thói quen nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hạnh phúc và sự thành đạt, mà tôi tin rằng đó chính là cứu cánh của đời người. Thí dụ,ï một người tự chọn bước vào một cuộc hành trình tâm linh bằng tất cả nỗ lực phi thường, thách đố mọi khó khăn gian khổ không phải chỉ với một mục đích đơn giản là để được trở thành một kẻ tử vì đạo, mà chắc chắn là họ hy vọng tìm kiếm cho mình một niềm hạnh phúc lâu dài. Ðể đạt được mục đích này, họ có thể đã không thèm quan tâm tới những phúc lợi cá nhân trong đời sống hiện tại. Cho nên theo tôi, cách thức mà chúng ta suy nghĩ rất là quan trọng trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Chính thái độ tinh thần cuả chúng ta mới là một trong những yếu tố hàng đầu trong việc kiếm tìm hạnh phúc.

Quán chiếu và phân tích sự việc một cách có luận lý sẽ giúp chúng ta  phát triển một lối tư duy đúng đắn. Nếu tâm hồn chúng ta càng rộng mở càng thư giản chừng nào, chúng ta sẽ càng dễ dàng có một cái nhìn chính xác về sự vật chừng ấy. Nó cho ta hai lợi điểm. Nếu ta để cho tâm hồn ta mở ngỏ, trước tiên nó sẽ làm cho ta thanh thản, thoải mái với chính mình. Và như vậy, một khi tầm nhìn của chúng ta không còn bị hạn chế, ta sẽ rất dễ dàng tìm ra cho mình những giải đáp trước những vấn nạn, khó khăn.

Chúng ta là những con người sống trên trái đất này cùng với vô vàn những con người khác, hạnh phúc của chúng ta quan hệ mật thiết với hạnh phúc của đồng loại. Thật khó mà tưởng tượng nổi rằng hạnh phúc của cá nhân tách rời, không lệ thuộc với hạnh phúc của người khác. Cho nên một điều chắc chắn rằng nếu chúng ta khát khao hạnh phúc cho chính mình, chúng ta cũng phải quan tâm một cách sâu xa  đến hạnh phúc của toàn thể nhân loại. Ðó là lý do tại sao tôi thường hay nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc triển khai mộït ý thức trách nhiệm phổ quát cho tương lai.

Trong tôn giáo của chúng ta, trong những lời nguyện cầu của chúng ta thường hay nói đến “phúc lợi của toàn thể nhân loại” hoặc  “hạnh phúc của con người”. Thế nhưng khi tôi nói đến sự cần thiết của một trách nhiệm phổ quát, nó không phải chỉ đơn thuần là một lý tưởng tôn giáo mà là một thực tế bao hàm cả hai mặt hành động và dấn thân tham dự.

Những thay đổi lớn lao của thời đại đã làm biến đổi khuôn mặt của thế giới, đặc biệt là trong lãnh vực truyền thông giữa con người. Hãy lấy Tây Tạng và những dân tộc quanh vùng Hy Mã Lạp sơn làm thí dụ. Ðã có một thời người ta có thể sống một cách biệt lập trên những vùng núi non cao thẳm. Tuy nhiên, tình huống này đã không còn xảy ra trong một thế giới lắm  đổi thay, cho dù ngay cả chúng tôi muốn sống biệt lập, cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài.

Bây giờ xin mời qúy vị hãy cùng tôi nhìn phớt qua khía cạnh phát triển kinh tế. Thật khó mà tưởng tượng nổi rằng trong thời đại hôm nay lại có một quốc gia hay một lục địa sống hoàn toàn dưới một chế độ chuyên chế. Một điều rõ ràng rằng, không những các quốc gia đơn thuần mà ngay cả những châu lục cũng phải sống nương tựa vào nhau trên bình diện kinh tế.

Rồi đến lãnh vực trao đổi thông tin và kiến thức, khoảng cách không gian đã không còn là một chướng ngại, vấn đề truyền thông chung quanh trái đất này bây giờ chỉ diễn ra trong vòng nháy mắt. Lúc còn trẻ, Ấn Ðộ và Trung Quốc đối với tôi quả thật là xa xôi diệu vợi, bởi vì phải tốn cả tháng trời mới có thể đi đến đó được. Bây giờ thì chỉ cần vài tiếng đồng hồ là người ta có thể đi từ Ấn Ðộ đến Âu Châu hay từ Âu Châu đi Mỹ quốc. Dĩ nhiên những cuộc hành trình bằng máy bay này có thể làm cho chúng ta mệt mỏi nhưng nó khẳng định một điều rằng phía bên kia trái đất đang nằm ở trong tầm tay với của chúng ta. Thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé và mỗi phần của nó lại phải nương tựa vào những phần khác.  Hãy lấy thí dụ về lãnh vực môi trường, một quốc gia riêng lẻ, cho dù là một siêu cường đi nữa cũng không thể nào một mình tự giải quyết được những vấn nạn lớn lao về môi trường, như là sự xói mòn tầng ô-dôn chẳng hạn.

Thực tế hôm nay cho thấy trái đất của chúng ta trở nên nhỏ bé hơn và tất cả mọi người, tất cả mọi quốc gia đều phải sống nương tựa chặt chẽ vào nhau. Thế nhưng về mặt tâm linh, về mặt tinh thần có vẻ như chúng ta chưa được chuẩn bị để theo kịp với thực tế cho nên đã không hòa điệu được với khuynh hướng phụ thuộc ngày càng gia tăng. Từ không gian nhìn xuống trái đất, có ai thấy được những biên giới chia cắt các quốc gia? Chắc chắn là không! Cũng thế, nếu ta quán tưởng sâu xa về sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng trên trái đất, những vấn nạn nhỏ bé cục bộ của chúng ta sẽ mất đi sức nặng và từ đó chúng ta sẽ bắt đầu nhìn sự vật trong tính toàn cầu, trong khái niệm chung của con người muôn thuở.

Trong ý nghĩa đó, khái niệm về “anh” và “tôi” đã mất đi tính ưu tiên của nó, và khi ta nhận thức rõ điều này, dòng tư tưởng sẽ tự động dẫn ta đến một cảm giác sâu xa hơn về một ý thức trách nhiệm đối với điều thiện phổ quát. Thế cho nên, ta càng dính dấp vào những chuyện mang tầm vóc thế giới nói chung, ta càng cảm thấy bình yên hơn, hạnh phúc hơn trong đời sống cá nhân. Ðiều đó cũng có nghĩa là nếu ta biết chăm sóc đến tha nhân, quan tâm đến phúc lợi của người khác chừng nào, ta sẽ bớt dần đi những thói xấu ganh tỵ, kiêu căng, độc ác chừng ấy. Không nghi ngờ gì nữa, những thói xấu đó cọng với tinh thần cạnh tranh ganh đua đã làm cho chúng ta sống không hạnh phúc trong mỗi ngày qua. Thế nhưng khi ta quan tâm đến phúc lợi của mọi người như  là của chính chúng ta, tự nhiên ta sẽ cảm thấy một niềm an lạc lớn lao tràn ngập tâm hồn.

Cách đây chẳng bao lâu, thế giới này đã bị phân chia thành hai khối, Ðông và Tây. Sự phân cách này đặt căn bản trên ý thức hệ chính trị hơn là kinh tế. Một khi mà vũ khí nguyên tử của phe này nhắm vào phe kia, người ta không thể  nói đến chuyện trợ giúp nhau mà phải nhìn thẳng vào thực tiễn thế giới trên căn bản của khái niệm “anh” và “tôi”, của “chúng ta“ và “họ“.  Như thế đó, thế giới đã bị chia cách bởi ý thức hệ và quyền lực. Ðể tự bảo vệ mình, hai phe sẵn sàng chấp nhận nguy cơ bị tiêu diệt bởi một trận chiến nguyên tử. Trong những tình huống như vậy, những  suy nghĩ của chúng ta không thể không bị đóng khung trong ý niệm cái này là của chúng tôi, cái kia là của họ. Nhưng bây giờ kỷ nguyên đó có thể đã qua rồi, chúng ta mường tượng đang bước vào một trật tự thế giới mới.

Mấy năm trước đây, trong dịp hội kiến với Tổng thống Bush tôi có phát biểu rằng trật tự thế giới mới sẽ là một điều rất tuyệt vời nếu được kết hợp với tinh thần từ bi. Nếu không có từ bi, tôi sợ rằng nó sẽ không thể thành công. Chúng ta đang bước vào một thời điểm rất thuận lợi và quan trọng của lịch sử thế giới. Ðây là lúc mà chúng ta có cơ hội để ngồi lại làm việc cùng nhau cho những mục tiêu tốt đẹp của nhân loại.

Khi ta suy nghĩ về một ý thức trách nhiệm chung và có một cái nhìn về lâu về dài về mọi chuyện, vấn đề kiểm soát sinh sản trở nên cần thiết. Trên quan điểm của người con Phật, sự hiện hữu của con người là một điều vô cùng qúy giá, thế nên, việc ngăn ngừa sinh sản có vẻ như không được đúng đắn. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang đối đầu với tình trạng quá tải về dân số mà thế giới có thể chịu đựng, thế nên khi có sự chọn lựa giữa một bên là sự sống còn của nhân loại và một bên chỉ là một số lượng nhỏ của những kẻ sắp ra đời, hiễn nhiên, chuyện kiểm soát sinh sản là một điều cần thiết. Nhưng tôi cũng cần phải nhấn mạnh ở đây là, biện phápï kiểm soát phải mang tính cách bất bạo động.

Những biến chuyển của tình hình thế giới đã đưa đến việc tiết giảm, kể cả hủy bỏ các loại vũ khí nguyên tử, một điều mà ai cũng thấy là rất tuyệt vời. Việc giải trừ quân bị là một điều cần thiết. Tất cả các loại vũ khí hiện có nên được tiết giảm từng loại một, từ các loại vũ khí của  chiến tranh quy ước, đến chiến tranh hóa học cũng như vũ khí nguyên tử. Thực tế cho thấy việc ngưng sản xuất vũ khí có thể gây nên những vấn nạn trầm trọng cho nền kinh tế và kỹ nghệ. Tuy nhiên những khó khăn đó tôi nghĩ là không đáng giá so với phúc lợi chung của nhân loại, ta nên từ bỏ nó trong khi kiếm tìm một giải pháp khác để giải quyết vấn đề.

Những khác biệt về truyền thống tôn giáo cũng là một khía cạnh quan trọng trong thế giới này và tôi tin chắc rằng đa tôn giáo là một điều vô cùng cần thiết. Ta không chối cãi rằng những tôn giáo khác nhau đã đưa ra những quan điểm siêu hình khác biệt, tuy nhiên một điều rất rõ ràng là những thông điệp căn bản của các tôn giáo chính đều rất giống nhau. Với những điều kiện thuận lợi hiện có, ta hãy học hỏi để có thể làm việc cùng nhau, sống với nhau trong tinh thần hòa điệu.

Chiến tranh lạnh đã là sản phẩm của quá khứ, cuộc đối đầu giữa Ðông và Tây không còn nữa. Tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách không thể lấp bằng trong vấn đề phát triển kinh tế giữa Bắc và Nam. Sự chênh lệch đáng kể về kinh tế đã tạo nên những vấn nạn lớn lao cho các quốc gia mở mang. Trên quan điểm đạo đức, sự cách biệt về mức sống đã là điều khó chấp nhận, nó lại còn mang thêm những khó khăn cho các quốc gia phát triển mà hậu quả cụ thể là sự di dân hàng loạt của các công nhân từ các xứ nghèo của Phi Châu, Trung Ðông, Viễn Ðông đổ xô đến Pháp, Ðức để tìm kiếm công ăn việc làm.

Trong những giải pháp mà người ta có thể hình dung ra để giải quyết vấn đề như từ chối không cho nhập cảnh, trục xuất những người di dân đều không bền vững. Hơn thế nữa, đó không phải là một giải pháp dài hạn. Phương cách hay hơn hết là làm sao tạo ra được công ăn việc  làm tại những quốc gia nghèo nhằm mục đích khuyến khích và nâng cao mức sống của người dân địa phương để họ không còn tìm cách di dân đi nơi khác với hy vọng kiếm tìm một đời sống tốt đẹp hơn.

Chắc chắn là một số quốc gia thời hậu Cộng sản hiện đang phải đối đầu với một số khó khăn lớn lao nhưng tôi nghĩ là  họ có nhiều tiềm năng để thành công về mặt kinh tế hơn là một số quốc gia khác. Các quốc gia ở vùng Viễn Ðông, Trung quốc, Ấn độ cũng thế. Vùng đất gặp nhiều khó khăn nhất, theo tôi là Châu Phi, một lục địa bao la với những khó khăn chồng chất. Cách đây không bao lâu tôi có dịp viếng thăm Gabon, nơi mà trước đây nhà bác học Abert Schweitzer đã từng sinh sống. Abert Schweitzer là một người Pháp, một con người vĩ đại đã chứng tỏ một tinh thầnï can đảm phi thường trong việc phục vụ những người nghèo khổ, những người cần được trợ giúp. Nếu muốn cái hố ngăn cách giữa Nam và Bắc ngày càng thu hẹp, hơn ai hết những nỗ lực chính phải đến từ những người ở phía Nam. Những quốc gia giàu có có thể cống hiến những trợ giúp nhưng đồng thời dân chúng tại các quốc gia nghèo hơn cũng phải đứng ra tự gánh vác trách nhiệm cho chính vận mệnh của họ.

Một sự kiện bất hạnh và đáng tiếc khác là ngay tại chính trong lòng các quốc gia phát triển cũng hàm chứa một sự phân cách lớn lao. Thành phần ưu đãi tuy chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong xã hội nhưng lại nắm hết toàn bộ tài nguyên quốc gia trong khi đại đa số quần chúng còn lại đều là những kẻ vô sản. Quả là một điều rất đáng tiếc. Tuy không phải là một chuyên gia về các vấn đề Phi Châu, nhưng trong chuyến thăm viếng vừa qua, điều đập vào mắt tôi trước tiên là ở đây đang cần một nhu cầu căn bản, đó là học vấn,  giáo dục. Thật khó mà tưởng tượng là chỉ nội trong một quốc gia cũng đã bị phân chia manh mún ra thành từng sắc dân, bộ lạc, nói những ngôn ngữ khác nhau. Ðiều này tạo ra thêm nhiều vấn nạn  mà ngay cả cá nhân tôi tôi cũng không biết phải giải quyết như thế nào. Ðối phó với tất cả những vấn đề nan giải đó, chắc là người ta phải khẩn cầu Trời Phật che chở!

Khi đề cập đến một số vấn đề quốc tế, tôi thường phát biểu với thân hữu: “Qúy vị đang sống trong các quốc gia dân chủ,đang hành xử quyền dân chủ mà ai cũng thấy là rất tuyệt diệu và cần thiết. Thế nhưng, ngay tại xứ mình thì quý vị áp dụng nó một cách trân trọng như vậy nhưng hiếm khi thấy qúy vị đem những nguyên tắc này ra sử dụng trong các quan hệ quốc tế!”

Một số  các nhà tư duy khoa học nay cho rằng đã đến lúc không còn nên phân biệt giữa hai phạm trù đối nội và đối ngoại nữa; chúng ta bây giờ đã là thành viên của một đại gia đình, tất cả đều bình đẳng như nhau, thế nên những vấn đề chung của cả thế giới cũng nên được xem như là  những vấn đề “nội bộï” cả.  Tôi nghĩ rằng đây là một cái nhìn rất thoáng và cao quý.  Ðem áp dụng tinh thần này vào thực tiễn, chúng ta sẽ giải quyết được một số vấn nạn chung.

Bây giờ hãy nói đến chuyện viện trợ cho các Quốc Gia Thứ Ba, người ta luôn luôn áp đặt lên đó một số điều kiện hoặc là một số giới hạn để tìm cách hạn chế nó. Quan niệm về viện trợ như vậy tự nó đã bị hạn chế vì chúng ta đã đặt ưu tiên trên chính quyền lợi của quốc gia mình, vì vậy đã tạo nên những chướng ngại cản trở cho việc điều hành một cách êm đẹp ngay giữa các quốc gia với nhau. Những giới hạn này phải nên được hủy bỏ, thay vào đó là thiện ý chính trị. Mà muốn đạt đến mục tiêu của thiện ý chính trị,ta không thể không xây dựng trên căn bản của tình nhân đạo, trên những nguyên tắc đạo đức vững chắc, đó là lòng vị tha và ước muốn tạo phúc lợi cho con người, cởi bỏ bớt cho họ những gánh nặng khổ đau.

Nếu thiện ý chính trị được đặt nặng trên những nguyên tắc này, tôi tin chắc rằng nó sẽ là một khí cụ lợi hại. Nhà chính trị không phải từ trên trời rơi xuống. Họ cũng không phải sinh ra từ không gian mà là một sản phẩm của xã hội, như chúng ta vậy. Nếu trong một xã hội mà toàn thể dân chúng đều chung hưởng một nền đạo đức luân lý cao qúy tốt đẹp, nhà chính trị được sản sinh ra từ xã hội này chắc chắn không thể không kính trọng những giá trị đó. Ngược lại, một xã hội không được xây dựng trên một nền tảng đạo lý, những thành viên của nó không hề tôn trọng bất kỳ giá trị đạo đức nào ngay cả cho chính mình, thì quả là điều phi lý khi họ lại lên tiếng phê phán những nhà chính khách của mình.

Một số người thường tự động liên hệ giữa đạo đức cùng một số nguyên tắc, lòng vị tha chẳng hạn, xem đó là cái nhìn thế giới dưới chiếc kính màu tôn giáo.  Lối suy luận đó hàm chứa rằng tất cả tín đồ của mọi tôn giáo đều tuân thủ một số tiêu chuẩn đạo đức, còn những ai không có tín ngưỡng cho dù có chấp nhận những nguyên tắc đạo đức này đi nữa họ cũng vẫn là những kẻ vô dụng, vô tích sự. Thật là một lầm lẫn lớn khi người ta tin rằng đạo đức chỉ là một phó sản của tôn giáo. Ta có thể hình dung ra hai loại người có đời sống tinh thần: loại thứ nhất là những người gắn chặt cuộc đời họ với niềm tin tôn giáo, trong khi loại thứ hai là những người được sinh ra bình thường như mọi người, sống với tình cảm giản đơn như yêu thương người láng giềng, sẵn sàng giúp đỡ, cư xử tốt với họ. Ðây cũng là loại người có đời sống tinh thần vậy. Tin theo tôn giáo là một điều tốt, thế nhưng con người vẫn có quyền sống mà không theo bất cứ một tín ngưỡng nào. Tuy nhiên nếu không có những phẩm chất đạo đức căn bản của con người, nếu không nuôi dưỡng sinh hoạt tâm linh cho đời sống thế tục, cá nhân sẽ không bao giờ có được một cuộc sống hạnh phúc và họ rất dễ dàng trở thành một tai họạ cho xã hội.

Bây giờ chắc sẽ có người hỏi, vậy thì cái gì được xem là phẩm chất đạo đức căn bản?  Tôi có thể trả lời ngay mà không cần suy nghĩ, đó là sự ân cần chăm sóc đến kẻ khác, đó là lòng thương yêu trìu mến trong mỗi con người. Bản chất yêu thương xuất hiện ngay từ những ngày đầu tiên khi ta hiện hữu trên trái đất này. Hãy nhìn một bà mẹ chăm sóc đứa con của mình: tình thương yêu qủa là rất tự nhiên. Nếu không có tình cảm này có lẽ bà mẹ đã không cho con bú và có lẽ bà ta cũng sẽ không có cả sữa. Ðứa trẻ cũng thế, nó tìm đến vú mẹ một cách tự nhiên, rồi được nâng niu với  tất cả những ân cần thương yêu từ người mẹ, nếu không được như thế chắc là đứa trẻ đã không rúc vào vú mẹ.

Như vậy đó, tình cảm ân cần thương yêu được biểu hiện ngay từ thuở đầu đời và đó chính là phần cốt lỏi của bản chất con người. Không có tôn giáo nào hướng dẫn ta, không có luật pháp nào bắt buộc ta và cũng không có trường học nào dạy ta về cái tình yêu thương tự nhiên này. Tình cảm yêu thương đó đã xuất hiện cùng một lúc với thể xác ngay từ khi ta mới chào đời. Ðó là một đặc tính bẩm sinh của con người. Ngay từ ngày đầu tiên, đời sống của ta đã được đánh dấu bởi tình thương yêu đối với tha nhân và qủa thật là một điều cần thiết để bảo tồn cái bản chất tự nhiên đó của nhân loại qua suốt kiếp người.

Ðó là lý do tại sao mà tôi thường hay bảo lưu quan điểm của mình cho rằng bản chất của con người là yêu thương, là nhân chi sơ tính bổn thiện! Nếu chúng ta sống một cách tử tế phù hợp với bản chất yêu thương tự nhiên, chắc chắn ta sẽ gặt hái được rất nhiều lợi lạc, không phải chỉ riêng cho chính bản thân mình mà cho cả xã hội mà ta đang sống. Ðối với tôi, cái tình cảm  yêu thương trìu mến này có thể được xem như  là một thứ tín ngưỡng phổ thông. Mọi người đều cần đến nó. Những người có đức tin cũng như những người không đức tin. Những đức tính tốt đẹp này chính là nền tảng căn bản của đạo lý.

Nếu qúy vị đồng ý với những gì mà tôi vừa phát biểu về lòng thương yêu vị tha này, xin hãy đón nhận nó như là một phần của qúy vị, càng nhiều càng tốt. Ngược lại, nếu suy nghĩ  theo một hướng khác, tôi e rằng quý vị sẽ phải sống triền miên trong những nỗi giận dữ.  Nhưng mà chuyện đó đâu có gì quan trọng, mọi người tự do mà!

Xin cảm ơn toàn thể qúy vị. Ðó là tất cả những gì mà tôi muốn trình bày hôm nay.

 

Những phát biểu của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã làm chúng ta ý thức được tầm quan trọng  trong lãnh vực tư duy của một nhà khoa học nhân văn cần nên có. Là một bác sĩ y khoa, tôi đang chuẩn bị một số câu hỏi có thể làm đề tài cho các cuộc thảo luận khác liên quan đến sinh học và đời sống tâm linh của nhân loại trong tương lai. Hiển nhiên là tôi đã phác thảo những câu hỏi này trong khung  cảnh của nền tôn giáo độc thần đang chế ngự phương Tây -Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo.

Những tiến bộ gần đây trên các lãnh vực y khoa, sinh học, di truyền học đã cho con người khả năng sao chụp lại một cách không hạn định cùng một sinh thể, nghĩa là khả năng tái tạo, nhân giống mọi sinh vật để có thể cùng mang  những đặc tính chung về thể chất lẫn tinh thần, tức là người ta có thể ấn định trước được cung cách, thái độ sống cuả chúng. Trong tương lai, qua sự can thiệp trực tiếp vào việc truyền sản, chúng ta có khả năng tạo ảnh hưởng lên các thế hệ mai sau, ấn định số lượng cũng như bản sắc của mọi cá nhân.  Trong rất nhiều năm, phôi bào của súc vật và có thể  cả bào thai của con người sẽ là đối tượng để nghiên cứu thí nghiệm về lãnh vực này.

Căn cứ vào những thí nghiệm như thế -thường được các cơ quan truyền thông tường trình đầy đủ- thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài tin rằng vào thời điểm nào trong quá trình thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa  những hạt mầm tinh thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?

 

Phật giáo quan niệm rằng ý thức xâm nhập vào sinh vật ngay từ phút giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ đó mà phôi bào vẫn được coi như là một sinh vật. Cho nên chúng tôi xem hành động phá thai cũng giống như việc cướp đi sự sống của một con người và dĩ nhiên đây không phải là một việc làm chánh đáng. Ðó là lý do giải thích tại sao chúng tôi đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc sử dụng phương thức bất bạo động trong việc kiểm soát  sinh sản. Tuy nhiên không phải là không có những trường hợp miễn trừ. Ví dụ như  trường hợp người ta biết chắc rằng đó là một quái thai hay sinh mạng của người mẹ bị hăm dọa chẳng hạn. Dĩ nhiên tôi phát biểu trên quan điểm của một người Phật tử. Bất cứ hành động nào ta cũng phải nên cân nhắc giữa tốt và xấu, giữa lợi và bất lợi. Tựu trung điều quan trọng vẫn là ý hướng và động cơ thúc đẩy đằng sau hành động đó.

 

Còn vấn đề vận dụng ngành di truyền học thì sao, thưa Ngài, -đây là một viễn tượng đã trở thành cụ thể- phải chăng khi người ta có thể thay đổi được những quy luật liên quan đến thân phận con người, nhân loại đã cướp quyền tạo hóa?

 

Người ta có thể đi sâu vào việc vận dụng ngành di truyền học để cải thiện thể chất con người, não bộ, v.v...

Phật giáo không quan niệm về một đấng Tạo hóa cho nên vấn nạn này được nhìn dưới một lãnh vực khác, đó là nghiệp, tức là những tác hành xảy ra từ những kiếp trước cùng với những hậu quả gây ra bởi những tác hành này. Cho nên nếu một người là đối tượng của sự vận dụng của ngành di truyền học thì đó chỉ là kết quả gây ra do những việc làm của họ trong quá khứ mà thôi. Một khi chúng ta nhận thức được  cái chuổi nguyên nhân và hậu quả, chúng ta cần phải quan tâm đến cái kết quả thiện hay ác gây ra do sự vận dụng nói trên. Ví dụ, nó có mang lại cho ta những kết quả khích lệ nào không trên phương diện trị liệu?

Nhưng rồi việc này lại đẻ ra một vấn nạn khác: để tìm hiểu xem nó mang lại xấu hay tốt  cho nhân loại ta lại cần phải thí nghiệm. Và như thế, con người một lần nữa trở thành những con vật thí nghiệm. Vấn đề này làm cho vấn nạn càng trở nên phức tạp, nan giải. Người Phật tử quan niệm rằng thí nghiệm trên súc vật cũng không khác gì trên con người và khó mà chấp nhận những chuyện như vậy.

 

Mục tiêu của việc nghiên cứu ngành di truyền học là nhằm giảm thiểu những bệnh tật và khổ đau của nhân sinh.  Nếu Ngài cho rằng khổ đau là một phần tất nhiên của thân phận con người, tại sao ta lại không nghĩ rằng bằng vào những nỗ lực thí nghiệm trên một số ít người, ta hy vọng sẽ giải phóng nhân loại ra khỏi khổ đau?

 

Thật khó mà trả lời.  Nhưng tôi xin phép được hỏi qúy vị: Qúy vị có tin tưởng rằng với sự vận dụng ngành di truyền học, mai đây con người sẽ trở nên bất tử? Tôi nghĩ  việc đó khó khăn lắm.

 

Trước tiên tôi không chắc đó là điều người ta cố gắng muốn vươn tới.

 

Có hay không, tôi thật tình không biết. Giả dụ như điều đó có thể xảy ra thì rồi đến một lúc nào đó người ta cũng phải tìm biện pháp ngăn ngừa sự sinh sản nếu không muốn gánh lấy hậu qủa trầm trọng của sự gia tăng dân số.  Mặt khác nếu giả dụ như ta có khả năng chấm dứt sự sinh sản và cái chết của con người cùng một lúc, thì ta cũng phải thiết định và giữ gìn một trạng thái quân bình nào đó bởi vì nếu thất bại thì quả là một đại họa.

 

Hãy để cho tôi trở lại câu hỏi. Trong triết thuyết của các tôn giáo độc thần, sự khổ đau thường được quan niệm như là một phương tiện dẫn đến sự cứu rỗi. Còn Phật giáo thì sao thưa Ngài?

 

Tôi nghĩ rằng Phật giáo cũng quan niệm tương tự. Bằng quan sát và quán chiếu về nỗi khổ đau của con người, ta mong muốn được giải phóng khỏi những nỗi khổ đau ấy.

 

Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, tôi xin phép được hỏi Ngài về những liên hệ giữa Tây Tạng và Trung Quốc. Có vẻ như Ngài rất tin tưởng rằng  Tây phương sẽ tạo áp lực lên Trung quốc về vấn đề này. Ngài có thể tin được chuyện là Tây phương chịu hy sinh một thị trường lớn với hàng tỉ khách hàng để bảo vệ cho nền độc lập tự trị của vài triệu người dân Tây Tạng? Có phải là điều quan trọng hơn, hiệu qủa hơn, về lâu về dài, là nên tạo một ảnh hưởng tinh thần lên Trung quốc thay vì cứ mãi chống đối họ? Ngài có nghĩ rằng diễn tiến phát triển kinh tế  tại Trung quốc  có thể đi song hành với sự tồn tại của hệ thống chính trị? Ngài có nghĩ rằng những giá trị tinh thần của Tây Tạng sẽ cưỡng chống lại những tiến bộ kinh tế do Trung quốc mang lại? Có phải là sự phát triển của nền kinh tế Trung quốc  mang lại mối hiểm họa lớn nhất cho Tây Tạng?

 

Suốt mười bốn năm qua chúng tôi đã cố gắng thảo luận một cách nghiêm chỉnh với Trung Quốc về vấn đề Tây Tạng, thế nhưng cho dù nhiều lúc đã phải xuống nước đối với họ, những nỗ lực của chúng tôi cũng chưa đi đến đâu cả. Thế cho nên một điều rất rõ ràng là, những áp lực của cộng đồng quốc tế quả là điều vô cùng cần thiết. Từ những kinh nghiệm riêng của chúng tôi cho thấy những nỗ lực của chúng tôi không mang lại kết quả cụ thể chúng tôi càng thấy sự quan trọng của áp lực quốc tế. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng tôi hoàn toàn trông cậy mọi chuyện vào người khác.

Lý do mà chúng tôi chọn lựa đường lối bất bạo động, cho dù bị chỉ trích, là vì chúng tôi tin rằng cuối cùng vẫn phải có một giải pháp giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Một giải pháp như thế chỉ có thể thành tựu một cách trực tiếp giữa hai quốc gia mà thôi. Sự hỗ trợ của nhân dân Trung Quốc, đặc biệt thành phần trí thức, sẽ là một yếu tố vô cùng cần thiết. Ðó là lý do giải thích tại sao chúng tôi theo đuổi phương thức bất bạo động ngay từ lúc khởi đầu cho dù phải chấp nhận những khó khăn. Bằng cách này tôi nghĩ là càng ngày càng có nhiều người Trung quốc, trong cũng như ngoài nước, bắt đầu quan tâm và có cảm tình với cuộc tranh đấu của chúng tôi. Có nhiều người Trung quốc đã lên tiếng cảm ơn chúng tôi khi chọn lựa phương thức  này. Dù gì đi nữa, tôi nghĩ rằng chọn lựa phương thức thương thảo để giải quyết vấn đề là một hành động mang giá trị tinh thần.

Trong mười bốn năm qua, tôi cũng đã chứng kiến những phái triển kinh tế đáng kể tại Trung quốc, ta phải mang ơn cho sự giải phóng  hệ thống kinh tế đó. Tuy nhiên trên bình diện chính trị, đã không có một chút nhỏ thay đổi nào, không có một chút nhỏ cải thiện nào.  Tôi nghĩ rằng về lâu về dài, sự giải phóng kinh tế sẽ mang lại sự giải phóng chính trị.

Bây giờ nhìn vào xã hội Trung Quốc ta sẽ thấy rằng nó được hình thành bởi ba giai tầng khác nhau. Trước hết là thành phần lãnh đạo và những người trung thành với đảng Cộng sản . Kế đến là thành phần trí thức, sinh viên học sinh và sau rốt là đám đông quần chúng. Nếu chúng ta chịu khó phân tích mối quan tâm chính của từng giai tầng, ta thấy rằng thành phần thứ nhất chỉ nghĩ đến quyền lực và cách thế để cai trị đất nước. Những người lãnh đạo đảng Cộng Sản luôn luôn muốn bám vào quyền lực bằng mọi giá và sẵn sàng sử dụng mọi phương tiện cho mục tiêu này. Ðều đó đã được chứng tỏ rõ ràng qua vụ Thiên An Môn.

Thành phần thứ hai là một nhóm thiểu số có ảnh hưởng mà mục tiêu cuối cùng của họ là xây dựng một thể chế dân chủ tại Trung Quốc. Còn thành phần thứ ba, quần chúng, họ chỉ quan tâm đến đời sống thiết thực hàng ngày, mức sinh hoạt, cái ăn cái mặc, chỗ ở, chiếc xe đạp hoặc cao hơn, chiếc xe gắn máy, cái tủ lạnh, cái máy giặt... Tôi nghĩ là họ chẳng thèm quan tâm đến việc đất nước có dân chủ hay không. Việc phát triển kinh tế do đó tạo  thêm niềm tin cho nhóm thứ nhất và thứ ba, đặc biệt nhóm thứ ba sẽ cảm thấy thỏa mãn về chuyện này. Nhóm thứ hai vì thế bị cô lập, ở vị thế bất lợi và do đó có thể họ sẽ bị xuống tinh thần. Nếu đúng như vậy thì qủa thật là một tai họa không phải chỉ riêng cho một tỷ dân Trung Quốc mà cho cả hành tinh của chúng ta.

Nhìn kỹ vào đất nước Trung Quốc chúng ta thấy gì? Ðó là một quốc gia có dân số đông đảo nhất thế giới. Dân chúng đang sống dưới cái ách của một chế độ chuyên chế độc tài mà ý thức hệ luôn cổ võ cho một bộ máy chiến tranh. Hơn thế nữa, Trung Quốc hiện đang có vũ khí nguyên tử trong tay. Thế nên nếu kinh tế của họ phát triển theo với một nhịp độ như hiện nay, tôi nghĩ là chúng ta sẽ trông thấy một số hậu qủa nghiêm trọng xảy ra không phải chỉ đối với những quốc gia lân bang với họ như Tây Tạng mà ngay cả những nước lớn như Ấn Ðộ cũng như  cả toàn thế giới.

Bây giờ xin được trả lời phần thứ hai câu hỏi của qúy vị, tôi nghĩ rằng vấn đề phát triển kinh tế tự nó không phải là một mối hăm dọa đối với nền văn hóa hay đời sống tinh thần của nhân dân Tây Tạng, nếu trong khi thực hiện, người ta quan tâm đến những điều kiện sẵn có của đất nước này. Phát triển kinh tế  có thể đi đôi với phát triển văn hóa. Trong Phật giáo, khi nói đến hạnh phúc nó cũng bao hàm cả những phúc lợi về mặt vật chất.

Ðiều mà chúng tôi quan tâm là, sự phát triển kinh tế của Trung quốc đã tạo nên một vấn đề nghiêm trọng trong việc thuộc địa hóa Tây Tạng khi Trung Quốc mang một số lượng lớn dân của họ vào đất nước chúng tôi. Mối hăm dọa lớn đối với Tây Tạng là vấn đề di dân, đặc biệt là sự di dân hàng loạt người Trung Quốc vào Tây Tạng. Chính cơn lũ những người Trung Quốc thực dân này đã tạo nên một bầu khí cực kỳ căng thẳng trên khắp đất nước chúng tôi, tiếp tục gia tăng tình trạng vi phạm nhân quyền sẫn có. Thêm vào đó, nó cũng đã gây nên những thiệt hại đáng kể trên lãnh vực môi sinh. Không biết có được tính toán trước hay không, một sự huỷ diệt văn  hoá đã xảy ra tại Tây Tạng và tôi nghĩ đó là mối nguy cơ lớn nhất cho tương lai của đất nước chúng tôi.

 

Thưa Ngài, trong một lần phát thanh gần đây, Ngài tuyên bố rằng Ngài có cảm giác mình như là một người Mác xít. Ý nghĩa đích thực của lời tuyên bố này là gì? Bằng cách này hay cách khác, Ngài đã nhiều lần biểu tỏ một niềm tin tưởng sâu xa vào thể chế dân chủ, kể cả ý hướng từ bỏ quyền lực chính trị nếu Tây Tạng được tự trị. Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, theo ý Ngài thể chế dân chủ hiện nay có gần gũi với những giá trị của Phật giáo hay không? Có mâu thuẫn nào không giữa những giá trị này và những qui luật của dân chủ ?

Ðứng trên quan điểm đạo đức mà nói, tôi thấy một số phạm trù của chủ nghĩa Mác rất có giá trị chẳng hạn như chế độ bình sản, bảo vệ kẻ nghèo chống lại sự bóc lột của thiểu số. Những khái niệm này ta có thể chấp nhận được. Tôi tin là người ta có thể cho rằng hệ thống kinh tế gần gũi nhất với Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Ðại thừa, là hệ thống kinh tế xã hội. Chủ nghĩa Mác đặt căn bản trên những tư tưởng tốt đẹp, thí dụ như bảo vệ quyền sống cho những người bị thiệt thòi nhất trong xã hội. Tuy nhiên khi đem áp dụng những nguyên lý này vào thực tế, người ta đã xây dựng trên căn bản hận thù bạo động đối với giai cấp chủ nhân và rồi sự thù hận này được chuyển thành giai cấp đấu tranh và sự tiêu diệt giai cấp bóc lột. Một khi giai cấp chủ nhân bị loại trừ thì  rồi cuối cùng cũng chẳng còn gì lại cho dân chúng và tất cả đều trở thành vô sản nghèo đói. Bởi vì ngay từ đầu đã hoàn toàn vắng bóng tinh thần từ bi.

Tương lai của Tây Tạng đã được quyết định, nó sẽ phải là một quốc gia dân chủ. Tôi không biết có sự mâu thuẫn nào giữa dân chủ và Phật giáo hay không, nhưng tôi có thể nói rằng Phật giáo Ðại thừa chính là tôn giáo của dân chủ.  Sau đây là một thí dụ.  Một cộng đồng tăng lữ (tức Tăng già, Shangha) thành hình khi nó quy tụ được ít nhất bốn vị tăng sĩ . Khi có một vấn đề quan trọng cần phải lấy quyết định, tất cả tăng sĩ trong nhóm như là một khối thống nhất sẽ giải quyết vấn đề chứ không phải chỉ một mình người lãnh đạo của nhóm.  Tương lai của Tây Tạng, theo tôi, lý tưởng nhất là sự pha trộn của các hệ thống kinh tế. Nếu qúy vị hỏi thêm gì khác, hoặc chất vấn tôi loại hình kinh tế đó như thế nào, câu trả lời của tôi chắc là rất ngắn!

 

Thưa Ngài, xin được hỏi Ngài một câu hỏi liên quan đến vấn đề Nam và Bắc mà Ngài đã từng đề cập đến khi trả lời câu hỏi của chúng tôi trước đây. Thực tế cho thấy là có đến 80% tiền viện trợ của Pháp cũng như các quốc gia Tây phương cho các quốc gia đang phát triển, đều lọt vào túi của tham nhũng. Như vậy Ngài quan niệm như thế nào về kiểu cách liên hệ giữa các quốc gia kỹ nghệ và Thế Giới Thứ Ba?

 

Vâng, tôi đã từng đề cập đến vấn đề này khi phát biểu rằng, điều cần thiết là phải làm giảm bớt hố sâu ngăn cách giữa các quốc gia phía Nam và phía Bắc. Việc trước tiên là phải làm giảm khoảng cách ngay trong tự thân của các quốc gia phát triển, giữa thiểu số được ưu đãi và đại đa số quần chúng. Như tôi đã phát biểu trước đây, trước tiên mỗi quốc gia phải tự mình vận dụng những nỗ lực để đạt đến tiến bộ. Ðiều này quá hiển nhiên. Người ta không thể đứng yên một chỗ suốt đời duỗi cánh tay ra mà có thể giải quyết mọi vấn đề. Người Tây Tạng chúng tôi trong thời gian lưu vong đã nhận được một số lượng viện trợ đáng kể. Trong thời gian đầu, chúng tôi hoàn toàn trông cậy vào sự trợ giúp này. Nhưng chúng tôi cũng biết rằng điều trước tiên là mình phải thể hiện những nỗ lực lớn lao để bảo đảm cho sự tồn tại của chính mình. Bây giờ thì không những chúng tôi có khả năng đáp ứng những nhu cầu của chính mình mà còn có thể làm việc trên nhiều dự án khác nhau nhằm mục đích bảo tồn bản sắc và nền văn hóa của Tây Tạng.

Thế nên, những nỗ lực trước tiên phải là của các quốc gia Thế Giới Thứ Ba. Hiện nay các quốc gia này được lãnh đạo bởi một giai tầng ưu đãi, thường là tốt nghiệp tại các nước phương Tây và bởi thế đã có một khoảng cách đáng kể giữa họ và dân chúng. Thế nên, bước cần thiết đầu tiên để xóa bỏ sự chia cách này là giáo dục quần chúng, tạo điều kiện cho những thành phần không được ưu đãi trong xã hội có cơ hội được nâng cao trình độ kiến thức.

Trong chuyến viếng thăm Gabon vừa rồi, tôi đã phát biểu với những người bạn Phi châu rằng, qúy vị đang sống trên một lục địa bao la, có quá trình lịch sử, nhiều tiềm năng lớn lao và tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng cái mà qúy vị thiếu là sự tự tin ở chính mình. Phải phát triển niềm tự hào, phải nuôi dưỡng sự quyết tâm, và dồn tất cả mọi nỗ lực để thực hiện sự biến đổi tình huống hiện tại. Hãy nhìn tấm gương của Mahatma Gandhi: mặc dù ông ta được hấp thụ một nền học vấn cao của Tây phương nhưng ông ta không bao giờ quên hay xa rời chiếc nôi văn hóa của chính mình.

Tâm Hà Lê Công Đa

Trích từ:Vượt khỏi giáo điều (Beyond Dogma)của Đức Đạt Lai Lạt Ma


 
 
   
 
  
Tìm kiếm

 
  
Tìm trên:     hoangphap.info web khác
Visitor Number: 
Hôm nay