TIỂU SỬ ĐẠI ĐỨC THÍCH THANH TUỆ
Vị Pháp Thiêu Thân
Xuất thân:
Đại đức Thích Thanh Tuệ xuất thân trong một gia đình trung nông, có truyền thống Phật giáo, thế danh Bùi Huy Chương, sinh năm 1946, tại làng Ba Khê, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Thân sinh là cụ Bùi Dư, thân mẫu là cụ Hoàng Thị Phục. Hai ông bà đã quy y và hết sức sùng kính Tam bảo; nếp sống của ông bà rất đạo đức thuần thiện, đã sinh hạ được năm người con, trong đó ba trai và hai gái, Đại đức là con trai kế út.
Buổi thiếu thời:
Năm lên 7 tuổi, Đại đức theo học trường làng.
Năm lên 10 tuổi, Đại đức thi đỗ tiểu học và cũng trong năm này, Đại đức khá trưởng thành về mọi mặt, nhất là mặt tri thức và tình cảm.
Về mặt tri thức: Đại đức đã sớm biết suy tư về kiếp sống vô thường, chứng kiến khá sâu sắc trong những tháng ngày bơ vơ tình mẹ.
Về mặt tình cảm: Đại đức rất khát vọng tình người, vì khi lớn khôn, Đại đức không được nâng niu cưng dưỡng, sưởi ấm trong bàn tay âu yếm của mẹ hiền như những bạn bè đồng lứa khác.
Chí nguyện xuất gia và tu học:
Năm lên 13 tuổi, Đại đức thường theo thân phụ đi chùa lễ Phật, nghe giảng Phật pháp và cũng kể từ đó, Đại đức đã cảm hoài đạo Phật, chí nguyện xuất gia bắt đầu chớm phát.
Năm lên 14 tuổi, Đại đức xin phụ thân xuất gia học đạo; Đại đức từ biệt thân quyến lên đường, đến chùa Phước Duyên, Huế bái yết Hòa thượng Đảnh Lễ xin được hành điệu. Thấy Đại đức tuy tuổi nhỏ, nhưng rất có chí khí và nguyện lực, nên Hòa thượng liền chấp nhận cho xuất gia.
Trong khi hành điệu, Đại đức đã tỏ ra cần mẫn, siêng năng tu học, tư cách rất đĩnh đạc, chí khí cao khiết, vì thế, nên đã được Hòa thượng Đảnh Lễ chăm sóc giáo dục kỹ lưỡng.
Năm 15 tuổi, Đại đức đã được Hòa thượng cho theo học các lớp Sơ trung đẳng tại Phật học viện Báo Quốc, Huế, và đồng thời cho theo học các lớp phổ thông trung học tại trường Bồ Đề Thành Nội, Huế.
Năm 16 tuổi, Đại đức được Hòa thượng Đảnh Lễ cho làm đệ tử với đệ tử trưởng tử của Ngài là Thượng tọa Thích Tánh Hải và cũng chính trong năm này, Đại đức được truyền thọ Sa-di giới với pháp danh Quảng Trí, pháp tự Thích Thanh Tuệ.
Năm 17 tuổi, Đại đức thi đỗ trung học đệ nhất cấp, và cũng chính trong năm này, Đại đức đã chứng kiến cảnh đàn áp Phật giáo đồ của chế độ Ngô Đình Diệm. Phật giáo Việt Nam bắt đầu dấn thân vào khúc quanh lịch sử vô cùng bi thảm và hùng tráng.
Hạnh nguyện tự thiêu:
Nhằm thể hiện lý tưởng nhất thừa, noi gương Ngài Dược vương Bồ-tát và kế tục truyền thống giữ nước, bảo vệ đạo của các thế hệ Phật tử Việt Nam anh hùng tiền bối, ngọn lửa đại hùng của Bồ-tát Thích Quảng Đức, Đại đức Thích Nguyên Hương đã bừng lên để soi đường cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hành động hợp lý. Đại đức Thích Thanh Tuệ cũng kế tục ngọn lửa đại hùng ấy, đã tự thiêu ngày 13.8.1963, tức là ngày 24.6. Quý Mão, để tăng thêm khí thế và đẩy mạnh lòng bất khuất, kiên cường đấu tranh của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam. Đại đức nguyện tự chết cho mọi người được sống trong tự do tín ngưỡng, Đại đức nguyện tự chết để yêu cầu chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm đáp ứng Năm nguyện vọng của Phật giáo đồ Việt Nam. Trong bức thư gởi đến Tổng thống bấy giờ, trong đó, Đại đức nói: “Tôi tăng sinh Thích Thanh Tuệ, 17 tuổi, kính gởi đến Ông, những nguyện vọng độc nhất trước khi tôi về cõi Phật.
1. Hãy chấm dứt mọi tình trạng khủng bố và áp bức Phật giáo đồ, và thả gấp tất cả những Phật tử bị bắt giam kể từ ngày mồng 8 tháng 05 năm 1963 đến nay.
2. Hãy giải quyết thỏa đáng gấp những nguyện vọng của Phật giáo đồ đã nêu trong các biểu ngữ.
3. Triệt để không cho bà Ngô Đình Nhu lên đài phát thanh, tiếng nói Việt Nam Cộng Hòa để nhục mạ Phật giáo, báng bổ cố Hòa thượng Thích Quảng Đức, vì việc làm ấy không những làm giảm giá trị của Phật giáo, mà trái lại gây sự căm phẫn trong quần chúng”.
Bức thư gởi cho Tăng Ni và toàn thể tín đồ Phật giáo Việt Nam, Đại đức nói:
“Trước khi về cõi Phật, tôi trân trọng gởi đến quý Ngài lời chào tối hậu và tôi xin thành kính cầu nguyện Hồng ân Tam bảo, Bồ tát Quảng Đức, liệt vị Thánh tử đạo gia hộ quý Ngài pháp thể khinh an, để đoàn kết chặt chẽ sau lưng Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết và Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật giáo, tranh đấu cho nền tín ngưỡng của dân tộc và yêu cầu chính phủ thực thi những nguyện vọng tối thiểu mà quý Ngài đã ghi trong các biểu ngữ, trong các báo chí Phật giáo”.
Đại đức đã tiên liệu trước, sau sự tự thiêu của mình, gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn do chính quyền tạo ra bằng cách mua chuộc, hoặc khủng bố. Nên, Đại đức đã viết bức thư gởi gia đình như sau:
“Con chết đi, cậu phải đương đầu với mọi đe dọa, nhưng cậu đừng sợ, đừng xiêu lòng, khi họ dùng những mánh lới khác, mà cậu phải hy sinh hoàn toàn cho Phật giáo, dù cho bản thân tứ đại của cậu phải bị diệt vong.
Lần cuối cùng, con kính lời đến gia đình con, quý bác, chú, thím, cô, dì, cậu, mợ và quý anh, chị em họ hàng thúc bá nội ngoại xa gần, lời chúc vĩnh biệt, trước khi con về cõi Phật”.
Khuya 13.8.1963, ngọn lửa đại hùng của Thích Thanh Tuệ bừng lên, trước tam quan chùa Phước Duyên, làm tỏa rạng cả một bầu trời đen thẳm. Tăng Ni Phật tử các nơi nghe tin ấy, tấp nập kéo về chùa Phước Duyên như thác đổ, vừa là để chiêm bái cầu nguyện, vừa để di chuyển nhục thân của Đại đức đến Tổ đình Từ Đàm, để tổ chức tang lễ. Chính quyền bấy giờ đã ra lệnh cho các tùy viên công an cảnh sát, tấn công một cách tàn bạo vào đoàn người di chuyển nhục thân của Đại đức, công an đã cướp mất nhục thân, khi đoàn rước mới di chuyển đi ngang qua khu vực chùa Linh Mụ.
Những kẻ bạo tàn có thể cướp mất nhục thân của Đại đức, nhưng không bao giờ cướp mất được ý chí tự chết cao cả của Người; không bao giờ cướp mất được lòng ngưỡng mộ tôn kính của hàng lớp người đối với Người; không bao giờ xóa tan được ý chí tự chết, đầy kiêu hãnh, hào hùng của Đại đức trong dòng lịch sử của đạo Pháp và dân tộc Việt.
Đại đức chết, để đi vào huyền sử, để trở thành bất tử trong lòng người. Chết để nói lên rằng, kẻ yêu chuộng chân lý không bao giờ khuất phục trước bạo tàn, chấp nhận cái chết là chấp nhận sự đấu tranh để bảo vệ chân lý đến cùng. Tự chết để đấu tranh là sự tranh đấu cao nhất của kẻ bị áp bức, mất hết mọi quyền tự do của mình. Đại đức nguyện tự chết để cho lương tâm, lương tri và tình người sớm được phát sanh nơi tâm hồn bạo chúa đã bị chai lì.
Trước cái chết là như thế, nên tờ báo Le Monde của Pháp ra ngày 12.06.1963, đã có lời nhận định về sự tự thiêu của các vị Thánh tử đạo Phật giáo Việt Nam như sau: “Tự sát để đấu tranh, kẻ táo bạo nhất cũng phải lùi bước”.
Và cũng chính bởi cái chết có tác dụng cao cả như thế, nên chúng tôi những người còn sống không được phép quên.
Do đó, chúng tôi xin ghi lại phần nào về cuộc đời của Đại đức, để tỏ lòng tri ân và ngưỡng mộ ý chí cao cả của Người. BBTHP |