Tinh Thần Kinh Kim Cang
Trong Triều Đại Nhà Lý
Vào thời Lý ( 1009 – 1225), kinh Kim Cang Bát Nhã đã ảnh hưởng rất lớn trong thời đại này. Các thiền sư đời Lý phần nhiều dựa vào giáo lý của kinh Kim Cang Bát Nhã để tu tập, hành đạo và độ đời. Vạn Hạnh thiền sư, theo Thiền Uyển Tập Anh, Ngài họ Nguyễn, người làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức, hiện nay là làng Đại Đình, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, sinh khoảng năm 932, thiếu thời thông minh, nghiên cứu hiểu thông trăm luận, xem thường công danh, năm 21 tuổi xuất gia ở chùa Lục Tổ, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông làm Thầy.
Chùa Lục Tổ với tên chùa đã giúp cho ta thấy hướng đi và sự tu học của Thiền Ông và học trò của Thiền Ông là Ngài Vạn Hạnh và Định Huệ đã ảnh hưởng đến tinh thần giác ngộ của Lục Tổ Huệ Năng đối với kinh Kim Cang Bát Nhã như thế nào rồi.
Ngài Vạn Hạnh đã dạy cho Lý Thái Tổ an bang trị thế bằng tinh thần “vô trú” của kinh Kim Cang, và chính tinh thần này đã đem lại sự bình trị cho đất nước hơn hai thế kỷ.
Vào ngày rằm, tháng 5, năm Ất Sửu, Thuận Thiên 16 (1025 ), ở chùa Lục Tổ, Ngài Vạn Hạnh đã gọi đồ chúng đến dặn dò và nói bài kệ thị tịch như sau:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.
Nghĩa là:
Thân như ảnh, chớp có rồi không
Vạn vật xuân tươi, thu héo mồng
Quy luật thịnh suy không sợ hãi
Thịnh suy đầu cỏ tợ sương hong.
Sau khi, Vạn Hạnh Thiền sư đọc xong bài kệ thị tịch cho đồ chúng nghe, Ngài còn nói thêm: “Ngã bất dĩ sở trú nhi trú, bất y vô trú nhi trú”. Nghĩa là tôi an trú vào chỗ không an trú, an trú vào chỗ mà ý niệm vô trú không thể tựa vào. Nói xong, Ngài liền xả thân.
Đọc thi kệ và lời dặn cuối cùng của Thiền sư Vạn Hạnh, ta thấy rõ cách nhìn về nhân sinh và vũ trụ của Ngài đã phản ảnh hết sức trung thực theo tinh thần của kinh Kim Cang Bát Nhã.
Chẳng hạn, câu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”, Ngài đã sử dụng biểu tượng “điện và ảnh” để diễn tả tính chất vừa hư ảo, vừa bất thực, vừa tạm bợ nhanh chóng của thân phận con người mà bài kệ trong kinh Kim Cang Bát Nhã, Đức Phật đã diễn tả tính chất bất thực và hư ảo ấy của các pháp do duyên khởi hay các pháp hữu vi như sau:
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điện
Ưng tác như thị quán”.
Nghĩa là:
Hết thảy pháp tương tác duyên khởi,
như mộng, huyễn, bọt nước, ảo ảnh,
như sương và cũng như điện chớp,
hãy thường quán chiếu như vậy.
Thân phận của con người, thân phận của mọi loài, thân phận của cỏ, cây, hoa, lá và ngay cả thân phận của mặt trời, mặt trăng, trái đất, núi rừng và biển cả, nếu đối với không gian vô cùng, thì chúng chỉ là những hạt bụi, những bọt nước, hạt sương; nếu đối với thời gian vô tận, thì sự tồn tại của chúng chỉ là những ráng nắng hay chỉ là những ánh chớp và nếu đối với thực tại vô ngã, thì chúng chỉ là mộng, là huyễn, là ảo ảnh, hoàn toàn không có ngã tính, không có tự thể thực hữu. Chúng có đó, rồi không đó, chúng không đó rồi có đó, đó là cái có, cái không của quy luật nhân duyên, nhân quả vận hành. Và ngay ở nơi có mà không và ngay ở nơi không mà có, đó là cái có và cái không thuộc về quán chiếu Bát Nhã mà thiền sư Vạn Hạnh cả một đời thường sống và thường chiêm nghiệm, rồi đúc kết và trao truyền lại cho tất cả chúng ta.
Câu hai: “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô”, đây là cách nhìn xuyên suốt về quy luật sinh diệt, thăng trầm, tán tụ của mọi sự hiện hữu. Không có sự sinh ra nào mà không có sự hủy diệt kèm theo, không có sự đi lên nào mà không kèm theo sự đi xuống, không có sự vinh quang nào mà không kèm theo sự tủi nhục và không có sự xanh tươi nào mà không kèm theo sự úa tàn.
Đây là quy luật hết sức tự nhiên của các pháp hữu vi, nhưng quy luật này trở thành khắt khe và cay nghiệt đối với những ai chưa từng sống mà chỉ chuẩn bị và săn đuổi sự sống và nó lại càng cay nghiệt hơn đối với những ai đang bám víu vào những gì mà mình đã có, đang có như thân thể, cảm giác, tri giác, hay nỗ lực bám víu vào tiền tài, sắc đẹp, danh vọng,… Và nó lại càng cay nghiệt hơn đối với ai nỗ lực bám víu vào một cái tôi giữa trường đời biến thiên vô tận. Nhưng, quy luật này đối với Vạn Hạnh thiền sư, chúng chẳng có gì khắc nghiệt, chúng chẳng có gì để đáng sợ hãi cả. Và điều này ta sẽ thấy Ngài Vạn Hạnh đã nhấn mạnh hay biểu lộ phong thái hành xử của mình một cách ung dung và tự tại qua hai câu cuối:
“ Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.
Nhậm vận, trong Toàn Việt Thi Lục và Hoàng Việt Thi Tập là “dụng vận”. Trong Việt Sử Tiêu Án là “Tùy vận”. Nhậm vận là vận hành theo quy luật tự nhiên; Tùy vận là theo sự vận hành của quy luật và dụng vận là ứng dụng sự vận hành theo quy luật. Hai câu này, Ngài Vạn Hạnh đã nói rõ sự chứng nghiệm tâm linh và phong cách ứng xử của mình đối với mọi hoàn cảnh, hay mọi tình huống xảy ra cho bản thân và xã hội.
Đối với bản thân, sống và chết là quy luật, là lẽ đương nhiên, nên chẳng có gì để ngạc nhiên đối với cái sống và cái chết, dù là chết trong lúc tuổi đang lên hay là chết trong lúc tuổi đã già. Lại nữa, sự mong manh của cuộc sống đời người, không phải là đến khi già nua, mà ngay ở nơi lứa tuổi cường tráng cũng mong manh như những giọt sương hong ở đầu ngọn cỏ vậy. Sự mong manh của cái thịnh hay cái suy, của cái sống hay cái chết, chúng không những không làm cho ta ngạc nhiên, không những không làm cho ta sợ hãi mà còn làm cho ta thanh thản trong khi sống và trong khi chết, trong khi lên và trong khi xuống, trong khi đến và trong khi đi, trong khi tụ và ngay cả trong khi tán nữa.
Đối với xã hội cũng vậy, cái đi sau là tiếp nối của cái đi trước và có thể làm cho xã hội phát triển và cực thịnh, nhưng đồng thời cái đi sau cũng có khi không có khả năng tiếp nối và phát triển cái đi trước, mà còn làm cho cái đi trước lụn bại suy tàn, cụ thể là Lê Long Đỉnh đã không tiếp nối được sự nghiệp của Vua Lê Đại Hành mà đã làm cho triều Lê lụn bại và cáo chung để mở màn cho một Triều đại Nhà Lý.
Thật vậy, sự suy bại của một triều đại, hay sự thay ngôi đổi chủ của một chính phủ, còn nhanh hơn là sự chuyển dịch của một đời người. Nên, Ngài Vạn Hạnh đã cảnh báo cho Lý Thái Tổ hay bất cứ những ai đang nắm quyền lực trong xã hội rằng, không những cái suy của một đời người, hay của một triều đại, chóng tan biến như những hạt sương đầu ngọn cỏ mà ngay cả cái thịnh của đời người hay cái thịnh của một triều đại, cũng dễ tan biến một cách nhanh chóng như vậy không khác.
Do đó, Ngài Vạn Hạnh muốn nói cho tất cả chúng ta biết rằng, chính cái thịnh hay cái suy của con người hay của xã hội, cả hai đều không có tự tính, chúng thịnh hay suy đều lệ thuộc vào quy luật hợp ly của nhân duyên, và nếu ta nắm được quy luật này, thì ta có thể tự chủ được cuộc sống, thăng hoa được bản thân, và nếu ta là người nắm quyền lực của xã hội, thì ta có thể xây dựng và phát triển đất nước, đem lại sự giàu đẹp và văn minh cho xã hội mà chẳng có gì để lo lắng và sợ hãi cả.
Bằng vào sự giác ngộ và nắm vững quy luật là “vạn pháp đều không có tự thể thực hữu và ly hợp là tùy thuộc vào nhân duyên”. Ngài Vạn Hạnh lại nói: “Tôi an trú vào chỗ không an trú, an trú vào chỗ mà ý niệm vô trú không thể tựa vào”. Do nắm vững quy luật mà kinh Kim Cang đã hiển thị này, nên Ngài đã tự do hành đạo, sử dụng mọi phương tiện mà không hề bị bất cứ phương tiện nào trói buộc. Ngài đã sử dụng thiên văn, địa lý, sấm vỹ và ngay cả việc sắp xếp triều chính, nhưng Ngài vẫn “vô trú” đối với những cái đó. Phải chăng, Ngài Vạn Hạnh đã chứng nghiệm và ứng dụng giáo lý vô trú của kinh Kim Cang Bát Nhã trong mọi hành động cứu nước giúp dân, làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh của mình một cách triệt để. Và do giác ngộ được ngã vô trú, nhân vô trú, chúng sanh vô trú, thọ mạng vô trú, pháp và phi pháp đều vô trú, nên Ngài Vạn Hạnh đã tùy duyên sử dụng vạn pháp để hóa độ chúng sanh mà Ngài không hề bị mắc kẹt đối với một chúng sanh nào hay đối với một pháp nào.
Làm lợi ích cho tất cả chúng sanh mà “vô trú”, nghĩa là không những chỉ vô trú ở nơi những phương tiện của hành động hoặc vô trú ở nơi ý hướng hay mục tiêu của hành động mà còn vô trú ngay cả nơi ý niệm trú hay không trú nữa. Tích cực hành động mà “vô trú”, tinh thần này Đức Phật đã dạy cho Tôn giả Tu-bồ-đề ở trong kinh Kim Cang Bát Nhã như sau: “Phật bảo, này Tu-bồ-đề! Các Đại Bồ-tát, nên hàng phục tâm mình như thế này: Nếu có bao nhiêu loại chúng sanh, hoặc sinh ra từ trứng, từ thai, từ ẩm thấp, từ biến hóa; hoặc loài có hình sắc, hoặc loài không có hình sắc, hoặc loài có tri giác, hoặc loài không có tri giác, hoặc loài không phải có tri giác cũng không phải không có tri giác, ta hướng dẫn cho họ đều đi vào giải thoát ở trong Niết Bàn tuyệt đối. Làm cho vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh giải thoát như vậy, mà kỳ thực ta không thấy có chúng sanh nào được giải thoát cả. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì nếu một vị Bồ-tát mà còn có những vọng tưởng về một bản ngã, về một con người, về một chúng sinh và về một sinh mệnh thì không còn là vị Bồ-tát chơn thực.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành bố thí không nên vướng mắc với bất cứ một thứ gì, nghĩa là không vướng mắc với sắc tướng, mà cũng không vướng mắc ở nơi âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc giác và ấn tượng để bố thí, Bồ-tát hãy bố thí mà không vướng mắc ở nơi hình tướng vọng tưởng như thế. Vì sao? Vì Bồ-tát bố thí không vướng mắc bởi hình tướng vọng tưởng, thì phước đức của họ không thể nào nghĩ và lường được”.
Với tinh thần hành động một cách triệt để, mà tâm vô trú của kinh Kim Cang Bát Nhã, khiến cho chàng trai tiều phu của xứ Rợ Hồ năm xưa ấy, đứng dậy, ứng đáp một cách sắc bén, chớp nhoáng và ngang tàng, chẳng có gì sợ hãi trước Ngũ Tổ giữa cõi tâm tông vô trước rằng: “Phật tính vốn bình đẳng không có Nam Bắc”, khiến cho Ngũ Tổ quát tháo và mỉm cười, rồi sau đó ấn chứng cho chàng trai tiều phu ấy trở thành Lục Tổ Huệ Năng.
Đến thế kỷ thứ mười, Vạn Hạnh thiền sư đã tu tập tại chùa Lục Tổ, ở làng Dịch bảng, phủ Thiên Đức của Việt Nam lúc bấy giờ, và sự nghiệp trí thức cũng như sự nghiệp đức hạnh của Vua Lý Thái Tổ cũng đã được Vạn Hạnh thiền sư giáo dục và tác thành ngay ở nơi ngôi chùa này.
Bởi vậy, không những triết lý hành động của Vạn Hạnh thiền sư chuyển tải tinh thần của kinh Kim Cang Bát Nhã, là hành động một cách triệt để mà vô trú, mà ngay cả triết lý và hành động của Vua Lý Thái Tổ cũng chuyển tải tinh thần ấy.
Bằng tinh thần hành động triệt để mà vô trú của kinh Kim Cang Bát Nhã, nên Vạn Hạnh Thiền sư đã sử dụng tất cả mọi phương tiện để có thể phụng đạo giúp đời, và Vua Lý Thái Tổ cũng bằng tinh thần ấy, để lãnh đạo quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Năm 1018, vua Lý Thái Tổ đã cử Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tống để thỉnh Đại Tạng kinh, đến năm 1020 thì Đại Tạng kinh mới đưa về Thăng Long
Năm 1023, vua sai người sao chép thêm một bản Đại Tạng kinh nữa và đến 1027 lại tiếp tục sao chép thêm một bản Đại Tạng kinh nữa.
Năm 1034, vua Tống lại tặng cho triều đình Thăng Long một bộ Đại Tạng kinh nữa, và năm 1036, vua Lý Thái Tông lại cho sao chép thêm một bản Đại Tạng kinh nữa.
Như vậy, vào thời vua Lý Thái tông tại đất nước Việt Nam chúng ta bấy giờ đã có ít nhất là sáu bộ Đại Tạng kinh, trong đó có một bộ do vua Lê thỉnh từ Tống và năm bộ còn lại do Triều đình Nhà Lý thỉnh hoặc sao chép.
Do đó, vào thời điểm này việc nhu cầu học hỏi kinh điển của mọi thành phần xã hội rất lớn, và lẽ đương nhiên là các dịch bản Bát Nhã và Kim Cang Bát Nhã của các ngài Cưu Ma La Thập, Huyền Tráng, Chân Đế, Nghĩa Tịnh, Lưu Chi,… đã được phổ biến rộng rãi trong giới Tăng Ni, Phật tử cũng như các giới quyền quý và giới nghiên cứu học thuật, và nó đã được các giới này chiêm nghiệm và ứng dụng vào đời sống.
Ta có thể thấy được sự học hỏi chiêm nghiệm này qua Hoàng đế Lý Thái Tông. Sự kiện được ghi lại trong Thiền Uyển Tập Anh như sau: "Bấy giờ Hoàng đế Lý Thái Tông thường tham vấn thiền chỉ với Thiền Lão ở núi Thiên Phúc. Kim chùy vừa giáng thì óc liền thông. Nhưng, những lúc rảnh rỗi việc nước, vua lấy thiền duyệt làm vui, nhân cùng các bậc kỳ túc khắp nơi giảng cứu các chỗ dị đồng. Vua đời trước bảo: Trẫm nghĩ đến nguồn tâm của Phật Tổ, từ xưa thánh hiền chưa khỏi bị chê bai, huống là người hậu học. Nay, Trẫm muốn cùng các đại đức, sơ tỏ ý mình, mỗi vị thuật một bài kệ để xem chỗ dụng tâm ra sao". Tất cả đều chắp tay đồng ý. Mọi người đang tìm ý, Vua đã làm xong bài kệ:
"Bát Nhã chân vô tông,
Nhân không ngã diệc không.
Quá hiện vị lai Phật,
Pháp tánh bản lai đồng".
Nghĩa là:
Bát Nhã thật vô tông,
Người không, ta cũng không.
Phật trước, nay, sau nữa
Pháp tánh bản lai đồng.
Mọi người đều phục Vua có tài ứng đối lanh lẹ. Nội dung của bài kệ ấy, vua Lý Thái Tông đã nói đến Tính không của Ngã và Pháp qua cách nhìn của kinh Kim Cang.
Và đọc Thiền Uyển Tập Anh, ta cũng thấy tư tưởng Không của Kim Cang Bát Nhã cũng đã ảnh hưởng sâu sắc với Thiền sư Định Hương.
Thiền sư Định Hương ở chùa Cảm Ứng, Ba Sơn, phủ Thiên Đức, họ Lã, người Châu Minh. Gia thế tu tịnh hạnh. Thời trẻ đến chùa Kiến Sơ tham học với thiền sư Đa Bảo.
Sau khi ngộ đạo, đáp ứng lời mời của đô trưởng Thành hoàng sứ Nguyễn Tuân về trú trì chùa Cảm Ứng, tiếp Tăng độ chúng rất đông. Đến ngày 03 tháng 03 năm Canh Dần (1050), triều Lý Thái Tông, sư bệnh, gọi đồ chúng đến từ biệt và đọc bài kệ:
"Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông.
Chân tông như thị huyễn,
Huyễn hữu tức Không Không".
Nghĩa là:
Xưa nay không xứ sở,
Xứ sở là chân tông.
Chân tông huyễn như vậy,
Huyễn hữu là Không Không.
Trong bài kệ Thị Tịch, thiền sư Định Hương đã nói đến Không Không, như là sự giác ngộ tối hậu của mình, khi chiêm nghiệm về các pháp hữu vi hư huyễn.
Bồ-tát tu tập về ý nghĩa của Không là như vậy, nên gọi là Không Không.
Lại nữa, Trí Độ Luận giải thích, thế nào là Không Không. Tất cả mọi vật đều không, cái không ấy cũng Không, nên gọi là Không Không. Lại nữa, đem Không mà phá vỡ nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, phá vỡ cả ba Không ấy, gọi là Không Không.
Lại nữa, đọc Thiền Uyển Tập Anh, ta lại thấy, Tăng Thống Huệ Sinh (?-1064), đã đáp ứng lời mời của vua Lý Thái Tông vào trai tăng ở Đại Nội. Trong dịp này vua nói với Tăng Thống Huệ Sinh rằng:
“Trẫm nghĩ nguồn tâm của Phật Tổ, người học chớ nên chỉ trích nhau, xin cùng thạc đức các phương, mỗi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của quý vị ra sao?”. Tăng Thống Huệ Sinh liền đáp ứng bằng bài kệ:
"Pháp bổn vô như pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhơn tri thử pháp,
Chúng sanh dự Phật đồng.
|