Dharmapāla và công cuộc phục hưng Phật giáo
DHARMAPĀLA VÀ CÔNG CUỘC PHỤC HƯN
DHARMAPĀLA VÀ CÔNG CUỘC PHỤC HƯNG PHẬT GIÁO
Anagarika Dharmapāla
là một trong những nhà truyền bá Phật giáo đầu tiên của thời hiện đại, vượt lên
trên sự khác biệt giáo phái và quốc tịch, đã mang thông điệp của Đức Phật đến
nhiều nơi trên thế giới. Ông cũng chính là người tiên phong, khơi nguồn cho
phong trào phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ - nơi khai sinh ra Phật giáo, và các quốc
gia châu Á khác giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Tuy xuất gia vào
những năm cuối đời, nhưng ông đã dành trọn vẹn cả cuộc đời để sống và phụng sự
Đạo pháp, nhân loại bằng cả trái tim và tấm lòng của một người tu sĩ. Để hiểu rõ
thêm về vai trò và những đóng góp to lớn của
Dharmapāla cho Phật giáo thời hiện
đại, người viết xin trình bày một vài nét về cuộc đời và công cuộc phục hưng
Phật giáo của ông.
Vài nét về cuộc đời
Dharmapāla
Anagarika
Dharmapāla, thế
danh là Don David Hewavitarane, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1864, trong một gia
đình theo đạo Phật ở thủ đô Colombo, Sri Lanka. Sri
Lanka vào thời điểm đó được gọi là Ceylon, thuộc
địa của Anh.
Từ nhỏ, David học tại các trường thuộc hệ thống giáo dục của Anh
Quốc. Mặc dù học ở các trường Công giáo, hằng ngày phải đọc kinh cầu nguyện và
nghe giảng Kinh Thánh, nhưng cậu bé David hoàn toàn không thích điều đó.
Trong nhật ký của mình, hình ảnh của các nhà truyền giáo Kitô được cậu mô tả về
một lối sống hưởng thụ quá mức và vô kỷ luật, mà đặc trưng là ăn thịt và uống
rượu. David cũng đã có ấn tượng tốt với các nhà sư Phật giáo: “Trái ngược với
những vị giáo sĩ truyền giáo ăn thịt uống rượu và ham thích dục lạc của tôi, các
vị Tỳ-kheo vô cùng thanh tịnh và tiết chế tất cả những thứ ấy. Tôi yêu thích
Tăng đoàn của các vị Tỳ-kheo Phật giáo và muốn ngồi lặng lẽ nơi góc hội trường
để nghe những bài thuyết giảng đầy trí tuệ của họ...”
Năm 1873, khi chỉ mới 9 tuổi, David đã chứng kiến một cuộc tranh luận lớn giữa
Phật giáo và Thiên Chúa giáo ở Panadura.
Cuộc tranh luận công khai kéo
dài suốt 7 ngày, kết quả Phật giáo đã thắng cuộc.
Sự kiện này khiến các học giả trên thế giới quan tâm đến Phật giáo Tích Lan,
trong đó có hai vợ chồng Henry Steel Olcott (1832-1907), một Đại tá Không quân
Mỹ. Vào năm 1877, họ bắt gặp một
cuốn sách nhỏ được xuất bản ở London mang tên "Phật giáo và Thiên Chúa giáo,
mặt đối mặt" (Buddhism and Christianity, Face to Face), mô tả cuộc tranh
luận ở Panadura. Năm 1880, họ đến
Tích Lan, tuyên bố mình là tín
đồ Phật giáo, quy
y thọ ngũ
giới tại tu viện Wijananda ở Galle với
Đại đức Gunananda. Diễn biến, kết quả của cuộc tranh luận và sự
kiện hai người từ phương Tây xa xôi đến quy y Phật đã tác động mạnh mẽ đến chàng
thanh niên 16 tuổi.
Sau khi kết thúc việc học ở trường, David Hewavitarane đã học việc với một công
chứng viên của Colombo và làm việc cho tờ báo của vị này trong khoảng 8 tháng,
sau đó làm thư ký của Bộ Giáo dục tại văn phòng ở Colombo.
Trong thời gian còn đi học, David đã chứng kiến một cuộc xung đột diễn ra vào
ngày 25 tháng 3 năm 1883, khi một đám đông người Công giáo Sri Lanka tấn công
một đám rước Phật giáo ở Kotahela. Ông bỏ trường Thiên Chúa giáo, chuyển sự theo
đuổi trí tuệ của mình sang Phật giáo dưới sự chỉ dạy của hai nhà lãnh đạo Phật
giáo vĩ đại, có ảnh hưởng vào thời bấy giờ, Hòa thượng Hikkaduwe Sri Sumangala
Thera và Migettuwatte Sri Gunananda Thera. Sau đó, tháng 1 năm 1884,
Đại tá Henry Steel Olcott và Madame Blavatsky, những người sáng lập Hiệp
hội Thần học ở New York, trở lại Sri Lanka và đệ đơn kiện thay cho những Phật tử
bị thương trong vụ tấn công. Bị thu hút bởi các bài nói chuyện của Olcott và
những hoạt động của Hội Thông thiên học, cũng như cảm thấy mục đích của Hiệp hội
giống hệt với mục đích của một cuộc phục hưng Phật giáo ở Sri Lanka, chàng thanh
niên 19 tuổi đã quyết tâm sống độc thân để phụng
sự Phật pháp, trở thành Anagarika (người vô gia cư) - một thành viên của hội vào
ngày 3-2-1884.
Năm 1886, ông quyết định rời bỏ công việc hiện tại và những lợi ích của mình
trong kinh doanh và bất động sản của cha để dành trọn thời gian
làm việc ở Hội Thông thiên học tại Tích Lan.
Ở đó, ông là người phụ tá đắc lực cho vợ chồng H. Olcott trong sự nghiệp chấn
hưng Phật giáo ở Sri Lanka, bắt đầu bằng việc thành lập các tờ báo Phật giáo.
Tuy nhiên, về sau giữa ông và Olcott có những bất đồng về tư tưởng nên
Dharmapāla đã
rời khỏi Hội Thông thiên học. Vấn đề mâu thuẫn ở đây là, trong khi
Dharmapāla chú
trọng việc truyền bá, thúc đẩy Phật giáo, vì theo ông chỉ có Phật giáo mới là
tôn giáo chân thực nhất; thì Olcott lại chủ trương cho Hội Thông thiên học xây
dựng một liên minh chung của các tôn giáo phương Đông mà H. Olcott coi đó là một
đối trọng tinh thần đích thực với Ki-tô giáo.
Vào thời điểm đó, người Tích Lan bị văn hóa phương Tây đồng hóa. Ki-tô giáo đã
dần bám sâu vào đời sống của người dân; trong khi giai cấp thượng lưu tỏ ra hãnh
diện với nếp sống và nền văn hóa phương Tây khi có tên tiếng Anh, giao tiếp bằng
tiếng Anh... Trong các bài thuyết giảng và các bài báo, David cho rằng điều đó
chứng tỏ bản thân thiếu tự tin và không hiểu biết về bản sắc văn hóa truyền
thống của dân tộc. Ông đã tự đổi tên thành
Dharmapāla để thể hiện quan
điểm của mình.
Đây là một việc làm rất thú vị đối với các nhà xã hội học và sử gia
tôn giáo khi nghiên cứu về
Dharmapāla. Người ta đã tìm
thấy chữ ký đầu tiên của ông là “Dharmapāla Hewavitharne” trong một
lá thư gửi Weligama Sumangala vào ngày 3 tháng 2 năm 1889. Ông đã giải thích
quyết định của mình trong nỗ lực thuyết phục sự giúp đỡ của Nayaka Thera rằng:
“Tôi đã từ bỏ tên nước ngoài mà tôi đã sử dụng cho đến nay và đã thêm vào họ
của mình “Dharmapāla”… Sẽ
không đúng chút nào khi một Phật tử Sinhala mang tên nước ngoài của Cơ Đốc giáo,
xin hãy giúp chúng tôi để chúng tôi có thể đạt được mục đích của mình.”
Cũng ở một bài viết của
ông vào năm 1923, Dharmapāla tự hào xác định rằng việc đổi tên là ý tưởng của
riêng mình. Ông giải thích lý do: “Chuyến
thăm của tôi đến Adyar và cảnh tượng của các Bà-la-môn đã gây ấn tượng mạnh cho
tôi, khiến tôi theo phong tục Arya. Hồi ấy tôi đã có một cái tên Thánh nhưng
không ai khuyên tôi phải bỏ nó đi cả. Vào năm 1887, tôi đã có ý tưởng đặt cho
mình một cái tên Arya và chính tôi đã chọn tên Dharmapāla.”
Căn cứ theo các tài liệu được tìm thấy từ các văn bản của ông thì
David đổi tên thành
Dharmapāla vào năm 1887. Và chúng ta thấy đây như một sự từ chối thẳng thừng của
David đối với văn hóa phương Tây mà cụ thể là Cơ Đốc giáo, và thể hiện quyết tâm
cùng cam kết của ông đối với nền tôn giáo bản địa của mình là Phật giáo, và cũng
là tinh thần bảo vệ bản sắc văn hóa của một người châu Á chứ không còn gói gọi
trong lập trường của một Phật tử hay một người dân Sinhala. Giống
như Gandhi, một người không tham gia vào bất kỳ cơ quan chính trị nào nhưng lại
trở thành chính trị gia có ảnh hưởng nhất thời bấy giờ,
Dharmapāla cũng
không tham gia trực tiếp vào chính trị quốc gia, tuy nhiên đóng vai trò rất quan
trọng trong những thay đổi chính trị và xã hội ở Sri Lanka trong vài thập kỷ
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Trong thực tế, ảnh hưởng của
Dharmapāla đã
được cảm nhận rất lâu sau khi ông qua đời cho đến ngày nay.
Một trong những quốc gia đầu tiên mà
Dharmapāla ghé thăm là Nhật Bản khi
ông 25 tuổi. Vào năm 1889, những Phật tử Nhật Bản nghe nói về thành công của Đại
tá H. Olcott ở Ceylon nên phái Senshiro
Naguchi đến Ceylon để mời Olcott đến
Nhật. Ngày 10-1-1889, Dharmapāla
tháp tùng cùng Olcott đến Nhật trên một
con tàu hơi nước của Pháp mang tên SS Dheninah, mang theo bức thư của Hikkaduwe
Sumangala Nayaka Thera, tỏ bày thiện cảm của Phật tử Tích Lan với toàn thể Phật
tử Nhật. Dharmapāla trở thành
nhân vật lịch sử với tư cách là đại biểu Phật giáo đầu tiên từ Tích Lan đến Nhật
Bản. Sau khi dừng chân ở Singapore, Sài Gòn, Hồng Kông và Thượng Hải, con tàu đã
đến Kobe (thủ đô cũ của Nhật Bản) vào ngày 9-2-1889. Ở đó, trong thời gian bốn
tháng, họ đã thăm nhiều nơi ở đất nước này để nói chuyện và thuyết giảng về Phật
giáo.
Chuyến đi này đã giúp
Dharmapāla
có những trải nghiệm thực tế về nền kinh tế Nhật. Ông nhận ra người Nhật có
nhiều điều kiện hơn về tài chính trong việc phát triển Bodh Gaya so với những
nước khác... Lần thứ hai Dharmapāla đến Nhật là vào 1893, trên đường trở về từ
Đại hội Tôn giáo thế giới tại Chicago; chuyến thăm thứ ba của ông là vào tháng
5-1902
trên đường đến Hoa Kỳ để
gây quỹ cho các dự án giáo dục mà ông đang thực hiện ở Ấn; và vào
năm 1913, ông đến Nhật lần thứ tư. Cũng trong dịp này, trên đường trở về,
Dharmapāla đã
ghé thăm và có những buổi nói chuyện với các Phật tử cũng như những nhà truyền
giáo Ki-tô tại Hàn Quốc và Trung Quốc.
Ở mỗi chuyến đi, ông đều có những hoạt động nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa hai
quốc gia, đồng thời ông cũng kêu gọi Nhật
Bản hỗ trợ phục hồi Bodh Gaya. Nhưng sau chuyến
đi vào năm 1913, ông không trở lại Nhật bản thêm một lần nào nữa. Món quà mang
tính biểu tượng nhất của người Nhật là bức tượng Phật bằng gỗ
do phái Chân ngôn tông (Shingon) tặng cho ông trong chuyến thăm đầu tiên tại
chùa Thiên Đức (Tentokuji) ở Tokyo.
Năm 1890, Dharmapāla cùng với một tu sĩ
Phật giáo người Nhật đang du học tại Colombo là Kozen Gunaratne đến
dự hội nghị thường niên tại trụ sở Thần học
Adyar. Sau đó, cả hai đã quyết dịnh đến thăm các thánh địa Phật giáo ở Bắc Ấn.
Họ đến Benares, Sarnath, Bodh Gaya. Cảnh
tượng hoang tàn tại các thánh địa Phật giáo đã khiến ông phát nguyện nhận lãnh
trách nhiệm phục hưng Phật giáo Ấn Độ. Đây là một ý tưởng đáng kinh ngạc
bởi đó là công việc khác với việc hồi sinh Phật giáo tại Sri Lanka mà ông đã
làm. Ở Sri Lanka Phật giáo chỉ mới suy yếu trong vài thế kỷ bởi sự hung dữ của
quân đội Bồ Đào Nha, sự tàn bạo của Hà Lan và sự thiên vị tôn giáo của Anh, còn
ở Ấn Độ Phật giáo đã suy tàn gần một thiên niên kỷ.
Dharmapāla
và phong trào phục hưng Phật giáo Ấn Độ
Ngày 22-1-1891, khi đặt chân đến Bodh Gaya,
Dharmapāla
vô cùng đau buồn khi chứng kiến tình
trạng bị lãng quên của ngôi tháp Maha Bodhi. Mặc dù nằm trong dự án phục hồi của
Miến Điện, nhưng điều đầu tiên ông nhận thấy là nơi này đã bị bỏ rơi và trong
tình trạng hoang tàn. Trên con đường đất từ Gaya đến nơi Đức Phật thành đạo,
trong vòng một dặm có thể nhìn thấy tượng Phật bị phá vỡ nằm rải rác khắp nơi.
Tại lối vào đền thờ của vị Mahant (vị tu sĩ chủ quản của một đền thờ Ấn giáo),
trên cả hai mặt của mái hiên có tượng Đức Phật đang thiền định và thuyết pháp.
Khung cảnh thiêng liêng với hình ảnh Đức Phật ngồi trên tòa cao đã gây xúc động
mạnh khiến Dharmapāla
bật khóc. Khoảnh khắc ấy được ông ghi lại trong nhật ký của mình: “Ngay
khi tôi chạm trán lên tòa kim cương, một
sự thôi thúc bất ngờ xuất hiện trong tâm trí tôi. Nó khiến tôi dừng lại ở đây và
chăm sóc điểm linh thiêng này”.
Chính những sự thật diễn ra đã khiến ông
cảm nhận được sứ mệnh thiêng liêng của mình là khôi phục và bảo vệ nơi này.
Sau khi trở về Tích Lan, ngày
31-5-1891, ông đã thành lập Hội Maha
Bodhi tại Colombo,
tổ chức Phật giáo đầu tiên trong lịch sử Phật giáo hiện đại truyền bá giáo pháp
ở những vùng đất không phải là Phật giáo. Một trong những mục tiêu chính
của Hội Maha Bodhi là khôi phục sự kiểm soát của Phật giáo tại chùa Maha Bodhi ở
Bodhgaya, một trong bốn Thánh
địa Phật giáo mà bấy giờ thuộc quyền
sở hữu của Ấn giáo. Để thực hiện điều này,
Dharmapāla đã khởi kiện Saivite Mahant, vị tu sĩ Bà-la-môn, người đã
nắm quyền kiểm soát địa điểm này trong nhiều thế kỷ.
Vào năm 1892, ông chuyển Hội Maha Bodhi đến Calcutta
và xuất bản Tạp chí Maha Bodhi để truyền bá giáo
lý của Đức Phật. Các nhánh của Maha Bodhi đã được thành lập ở nhiều vùng của Ấn
Độ và xuất bản các bản dịch Pāli sang các ngôn ngữ bản địa Ấn Độ hiện đại
như tiếng Hindi và các ngôn ngữ địa phương.
Dhammapāla cũng thường đi diễn thuyết nhiều nơi
trên đất Ấn với những bài nói chuyện rất xúc động:
“Phật giáo của quê hương Ấn Độ chúng
ta đã lưu lạc tha phương ngót 800 năm.
Ngày nay, Phật giáo đã trở
lại cố quốc, là niềm an ủi lớn lao cho
tất cả chúng ta. Ngay lúc này đây, người dân Ấn
phải thức tỉnh, phải vươn lên mọi định
kiến giai cấp và tín
điều, chỉ với một mục đích duy
nhất là cùng với Hội Đại Bồ-đề, đem giáo
lý của Đức Phật tặng lại cho nhân
dân Ấn Độ”.
Nhận thức được việc khôi phục Bodh Gaya không thể thành công nếu chỉ với sức
mình mà cần có sự góp sức của mỗi người đệ tử Phật trên toàn thế giới,
Dharmapāla bắt đầu viết hàng ngàn lá thư gửi đi cho nhiều người ở
Ceylon, Miến Điện và Ấn Độ, mô tả tình trạng hoang tàn của Bodhgaya và cầu xin
sự giúp đỡ để phục hồi Phật giáo Ấn Độ và tái lập Tăng đoàn ở đó. Ông cũng đã
viết các bài báo dài bằng tiếng Sinhale và tiếng Anh đăng trên tạp chí Maha
Bodhi.
Bảy tháng sau, Tăng đoàn Phật giáo đã được thành lập gồm bốn Tăng sĩ: Dunuwila
Chandajoti, Matale Sumannala, Anuradhapura Pemananda và Galle Sudassana; lá cờ
Phật giáo đã được treo trên Bodhgaya. Ngày 13-5-1893,
Dharmapāla sang
Miến Điện. Trong vòng một tháng, ông đã đến thăm những Phật tử giàu có ở
Rangoon, Mandala và Moulmern để quyên góp tiền cho công cuộc lấy lại Bodhgaya.
Sau nhiều nỗ lực, ngày 26-5-1896, lần đầu tiên sau hàng trăm năm Phật giáo biến
mất trên đất Ấn, lễ Phật đản được tổ chức trang nghiêm tại Calcutta dưới sự chủ
trì của Narendra Nath Sen. Mọi cố gắng khôi phục
Bodhgaya chỉ thành công sau khi Ấn Độ
giành độc lập (1947), và 16 năm sau khi Dharmapāla (1933) qua đời, với sự phục
hồi một phần địa điểm cho ban quản lý của Hội Maha Bodhi vào năm 1949. Sau đó,
việc quản lý ngôi tháp Bodhgaya được ủy thác cho một ủy ban gồm số lượng người
Ấn giáo và Phật giáo bằng nhau.
Sự phục hồi Bodhgaya
chỉ là một phần trong công cuộc phục hồi Phật
giáo trên chính vùng đất mà nó khai sinh. Phần lớn cuộc đời của Anagarika
Dharmapāla được nhắc đến như
một nhà tiên phong trong sự hồi sinh Phật giáo ở Ấn Độ. Một bức tượng của
Anagarika Dharmapāla đã
được dựng lên trong khuôn viên tại một trường đại học gần Hội Maha Bodhi ở
Calcutta để ghi nhận sự đóng góp của ông.
Dharmapāla
và công cuộc truyền bá Phật giáo đến Âu-Mỹ
Đại hội Tôn giáo Thế giới vào năm 1893, được tổ chức bên bờ hồ Michigan,
Chicago, được xem là sự kiện lớn nhất và đặc sắc nhất trong số nhiều đại hội
khác trong chương trình Triển lãm Thế giới của Columbus. Đại tá Olcott đã tài
trợ cho Dharmapāla
đến tham dự đại hội với tư cách là một diễn giả đại diện cho Phật
giáo Nguyên thủy
theo lời mời của chủ tịch Ủy ban đại hội, thẩm phán tiến sĩ J.R. Barrows, người
đã đọc được các bài viết của ông trên Tạp chí Maha Bodhi. Ông
đi trên con tàu “Britannia” đến Anh vào ngày 20 tháng 7, mang theo 20.000 bản Tam
quy Ngũ giới mà ông đã in sẵn để phân phối miễn phí dọc chuyến hành
trình. Sau khi ghé lại Aden,
Port Said
và Brindisi,
ông đến nước Anh vào ngày 11 tháng 8.
Dharmapāla
được
Edwin
Arnold, Bertram
Keightley, C.W.
Leadbeater và C.
Jinarājadāsa chào đón nồng nhiệt. Ông
ở lại nhà của Edwin, sau đó ở London với Annie
Besant. Dharmapāla
đến Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 9 và tiếp tục đến Chicago bằng tàu hỏa.
Ngày 11 tháng 9, đúng 10 giờ, tại Hội trường Columbus đã đã đông đúc. Các vị
lãnh đạo tôn giáo đại diện cho 12 tôn giáo trên toàn thế giới nắm tay nhau cùng
bước ra, bên dưới là những lá cờ vẫy của nhiều quốc gia giữa sự cổ vũ nồng nhiệt
của bốn ngàn thính giả từ mọi miền đất nước và cả nước ngoài. Ở vị trí trung
tâm, mặc áo choàng đỏ tươi và ngồi trên một chiếc ghế cao của nhà nước là Đức
Hồng y Gibbons, vị giám mục cao nhất của Giáo hội tại Hoa Kỳ, hai bên là nhóm
đại biểu đến từ phương Đông với sắc phục nhiều màu.
Dharmapāla
ngồi bên cạnh Swami Vivekananda, một tu sĩ Ấn giáo có tài hùng biện đến từ
Bombay, và Virchand Gandhi, một luật sư trẻ, đại diện đạo Kỳ-na (Jain) duy nhất
đến từ Gujarat.
Dharmapāla
xuất hiện lần đầu tiên trong ngày
khai mạc đại hội,
với bài phát biểu kết thúc ngày làm việc thứ nhất
bằng việc mang đến đại hội những lời chúc tốt đẹp của 475 ngàn Phật tử, những
phước lành và sự bình an của Phật giáo.
Một cách khéo léo,
Dharmapāla đã mô tả đại hội hiện tại như một âm hưởng của đại hội
Phật giáo tại Ấn Độ 20 thế kỷ trước, do vua
Asoka
tổ chức; và ông cũng
so sánh Tiến sĩ Barrow (người tổ chức đại hội) sẽ được nhớ đến như một A Dục
vương của Mỹ, vì ý tưởng mở đại hội các tôn giáo lần này đã góp phần đưa việc
truyền tải Phật giáo sang phương Tây.
Tác phong và lời nói của ông đã gây ấn tượng mạnh với đại
hội, đến nỗi
tờ St. Louis Observer đã đưa tin về
Dharmapāla cùng
với bài thuyết trình:
“Với mái tóc xoăn đen hớt ra phía sau vầng trán rộng, lông mày và đôi mắt
sáng với ánh nhìn sắc sảo, nhìn thẳng vào khán giả, những ngón tay
dài màu nâu
nhấn nhá theo giọng nói hùng hồn, ông trông đúng là hình ảnh của một nhà truyền
giáo, và những người thấy ông (nghe ông nói vào lúc đó) chấn động khi biết rằng
có một nhân vật đứng đầu phong trào để ủng hộ tất cả Phật tử và truyền bá ánh
sáng giác ngộ của châu Á trên khắp thế giới văn minh này”.
Không chỉ dừng lại ở đó, với
một bức tượng Phật cổ trong tư thế kiết-già
được mang từ Sri Lanka sang đặt trên chiếc bàn bên cạnh,
Dharmapāla
đã mang những lời dạy của Đức Phật đến thế giới phương Tây theo cách chưa từng
có qua các bài phát biểu những ngày sau đó. Trong bài thuyết trình “Thế giới
nợ Đức Phật”,
Dharmapāla đã khẳng định vị trí của
Phật giáo như một tôn giáo hoàn toàn tương thích với sự phát triển của
khoa học hiện đại. Vào ngày thứ 16 của
đại hội, Dharmapāla
đã trình bày về “Điểm khác biệt giữa Phật giáo và Cơ Đốc giáo”, với nhiều
dẫn chứng từ các nguồn tài liệu nghiên cứu của các học giả phương Tây nhận định
về Phật giáo và Cơ Đốc giáo như: William W. Hunter, H.T. Buckle, Müller… Bên
cạnh đó, ông cũng trích dẫn so sánh giữa những điều răn của Chúa trong Phúc âm
và giáo lý đạo Phật để xác định vị trí độc đáo của Phật giáo.
Dharmapāla
giải thích với đại hội rằng Đức
Phật đã
phủ nhận sự tồn tại của một đấng
tạo hóa
bằng
việc đưa ra giáo lý Tứ diệu đế và luật
nhân quả nghiệp báo,
đề cao tinh thần bình đẳng, không có giai cấp trong Phật giáo…
Qua đó,
Dharmapāla đã
tự tin
khẳng định rằng “Cuộc đời và giáo lý của Đức Phật bắt đầu ảnh hưởng đến tư
tưởng tôn giáo ở Âu Mỹ. Phật giáo sẽ nổi bật như hiện thân của chân lý vĩnh
cửu.”
Trong 12 diễn giả trình bày về Phật giáo
đến từ Thái Lan, Tích Lan và Nhật Bản, hầu hết các bài thuyết trình của họ được
trình bày bởi các dịch giả; riêng
Dharmapāla đã
nói tiếng Anh rất lưu loát và đưa ra lời tường thuật sống động nhất về truyền
thống Phật giáo của mình. Lần đầu tiên giáo lý
được trình bày chính thức cho khán giả phương Tây bằng nhiều trích dẫn từ
kinh điển,
được phân loại theo từng chủ đề khác nhau.
Với phong cách truyền đạt tự nhiên, chân thành, khiêm tốn và
không có bất kỳ kế hoạch hay nghệ thuật nào nhưng
Dharmapāla
đã làm cho Phật giáo trở nên sống động với khán giả phương Tây.
Leoline Leonard Wright, khi hồi tưởng về đại hội đã nói: “Ai đã nhìn thấy
Dharmapāla, người Phật tử nổi tiếng
người Sinhale, đều không thể quên được vẻ cao quý và xinh đẹp như Đức Chúa
Giê-su. Trông ông giống như một vị ẩn sĩ thanh cao và tỏa sáng khi vận một chiếc
áo màu trắng tinh khiết truyền thống của người Phật tử.
Dharmapāla như tảng nam châm thu hút
hết đám đông, những người có mặt trong cuộc họp. Chỉ nhìn vào
Dharmapāla thôi cũng thấy rõ được cá
tính và sự thành tựu tâm linh của ông.”
Đối với Hoa Kỳ, một quốc gia mà theo Alexis De Tocqueville đánh giá là “Không
có một đất nước nào trên thế giới mà sự tồn tại của Cơ Đốc giáo lại ảnh hưởng
lớn đến tâm hồn con người như ở Mỹ ”,
nhưng chỉ qua hành động lịch thiệp nhưng không kém sự chân thành của
Dharmapāla là
vui vẻ bắt tay hàng trăm phụ nữ Cơ Đốc và ký tên lưu niệm trên quạt, trong sổ
tay, giữa hàng ngàn người đến tham dự Đại hội, trước sự ngạc nhiên của hàng trăm
vị đại biểu của các tôn giáo bạn đến từ khắp nơi trên thế giới, đã khiến cho
tình hình trở nên thay đổi. Philangi Dasa trên tờ The Bhuddist Ray do ông
xuất bản đã bình luận về cử chỉ thân thiện này: “Hành động ấy sẽ khiến cho
ngân sách giáo xứ trong mùa giáng sinh bị sút giảm”.
Tạp
chí Chicago cũng bình luận về vai trò của ông tại đại hội với tuyên bố rằng: “Sự
khinh miệt và thương hại cho các tôn giáo phương Đông đã nhường chỗ cho sự tôn
trọng và ngưỡng mộ”.
Dharmapāla
nổi lên trong Đại hội với tư cách là một diễn giả của một phong trào tôn giáo
trên toàn thế giới quyết tâm phổ biến “ánh sáng châu Á” trên toàn bộ trái đất.
Sự tự tin, độc lập về tư tưởng cùng với tính cách năng động của
Dharmapāla
đã tỏa ra nguồn năng lượng làm say mê cả khán giả trong nước và quốc tế. Giọng
nói sôi động, hùng hồn của ông đã gây được tiếng vang và truyền cảm hứng cho
người nghe. Điều minh chứng là vài ngày sau khi đại hội kết thúc, C.T. Strauss,
một thương gia người Do Thái ở New York, đã bày tỏ mong muốn trở thành Phật tử
và đã nhận được Năm giới từ
Dharmapāla
trong một buổi lễ quy y đơn giản nhưng rất ấn tượng được tổ chức dưới sự bảo trợ
của Hiệp hội Thần học Chicago. Không chỉ là người Phật tử đầu tiên trên đất Mỹ,
Strauss còn là người người ủng hộ trung thành của Hội Maha Bodhi. Sư kiện này
như một dấu son đánh dấu sự du nhập chính thức của Phật giáo vào một quốc gia
năng động có tuổi đời rất trẻ.
Trong đại hội lần này, Dharmapala đã gặp Tiến sĩ Paul Carus, người thành lập chi
nhánh Hoa Kỳ của Hội Maha Bodhi. Về sau Paul Carus đã trở thành người tích cực
ủng hộ cho sự phát triển của Phật giáo tại Hoa Kỳ bằng những tác phẩm viết
về Phật giáo và đưa giáo lý Phật giáo vào trong âm nhạc cổ điển phương Tây.
Vài ngày sau khi đại hội kết thúc, vào ngày 26 tháng 9, ông thuyết giảng tòa nhà
Athenaeum do Hiệp hội Thần học tài trợ. Ngày 10 tháng 10, trên chuyến tàu từ Mỹ
trở về Ấn Độ, tại Honolulu,
Dharmapāla gặp
bà Mary E. Foster. Dù cuộc gặp gỡ của họ chỉ kéo dài trong vài phút nhưng những
lời nói của Dharmapāla
đã để lại dấu ấn sâu sắc đối với bà. Mary E. Foster sau đó trở thành vị đại thí
chủ của Phật giáo;
số tiền quyên góp của bà cho các hoạt động của
Dharmapāla đã
lên tới gần một triệu rupee. Chùa, tu viện, trường học, bệnh viện và nhiều tổ
chức khác được thành lập ở Ấn Độ và Ceylon là nhờ vào sự đóng góp của bà. Vì vậy
ngày nay, Mary E. Foster được xếp ngang hàng với tên của Anathapindika và
Visakha, những vị đại thí chủ của Phật giáo ngày xưa.
Một sự kiện đặc biệt đã xảy ra lần đầu tiên tại nước Mỹ, trong chuyến thăm dài
ngày của Dharmapāla là
vào tháng 5 năm 1897,
Dharmapāla đã tổ
chức thành công buổi lễ Phật đản (Vesak) thu hút khoảng bốn trăm người tham dự,
trong một căn phòng nhỏ mà bấy giờ đã tạm thời được chuyển thành một ngôi chùa
Phật giáo. 37 ngọn nến được thắp lên tượng trưng cho 37 nguyên tắc trí tuệ, rực
sáng trên các bậc của bàn thờ trước hình tượng Đức Phật. Anagarika đã nói lên ý
nghĩa về ngày đản sinh của Đức Phật và tụng bài kinh Phước đức (Mangala
Sutta) từ một cuốn sách lá cọ cũ. Sau khi rời Hoa Kỳ,
Dharmapāla
đã tới Luân Đôn và qua Paris, Berlin, và Rome.
Dharmapāla cũng
trở lại Mỹ nhiều lần sau đó và thuyết giảng nhiều nơi cho cả Phật tử và tầng lớp
trí thức. Có thể nói
Dharmapāla là người Sri Lanka đầu tiên đi vòng quanh thế giới với tư
cách là nhà truyền giáo Phật giáo của thời hiện đại. Ông đã có công mở đường cho
Phật giáo đi vào Hoa Kỳ và làm lan rộng Phật giáo đến các vùng đất khác ở phương
Tây.
Năm 1926, Dharmapāla
đã đi thuyền qua Đại Tây Dương từ Hoa Kỳ đến Anh, mang theo sự quyết tâm đưa ánh
sáng Phật pháp đến với vùng đất này. Cũng trong chuyến đi này, vào tháng 5,
Dharmapāla cùng
với các hội đoàn Phật giáo ở Luân Đôn tổ chức thành công lễ Phật đản tại tòa thị
chính Holborn. Trước khi rời vương quốc Anh,
Dharmapāla cho
xuất bản một tạp chí hàng tháng có tên là The British Buddha nhằm tạo một
kênh thông tin truyền bá tư tưởng, giáo lý Phật đến người Anh.
Vào thời điểm bấy giờ, chính các hoạt động này là những viên gạch đầu tiên làm
nền móng cho việc xây dựng ngôi nhà Phật giáo tại Anh Quốc. Từ nền tảng ban đầu
ấy, những người đệ tử xuất gia, tại gia của xứ sở sương mù đã tiếp tục chung tay
phát triển Phật giáo trên chính quên hương mình. Ngày nay, Anh quốc có khoảng 54
ngôi chùa Phật giáo, hơn một nửa trong số đó có nguồn gốc từ Sri Lanka.
Ngày 13 tháng 7 năm 1931, khi bước sang tuổi 67,
Dharmapāla chính thức xuất gia. Lễ
xuất gia do Hòa thượng Borukgamuve Sri Revata chủ trì, và được thực hiện theo
các nghi thức truyền thống của Sri Lanka. Ông được đặt pháp danh là Siri
Devamitta Dharmapāla. Dù căn bệnh tim ngày càng trở nặng nhưng ông vẫn cố gắng
đi lại các thánh tích, tiếp tục viết bài đăng trên các tạp chí cũng như sắp xếp,
bàn giao mọi việc cho những người và tổ chức đáng tin cậy để họ tiếp tục công
việc còn dang dở của mình.
Ngày16 tháng 1 năm 1933, một giới trường được thiết lập tại tịnh xá
Mulagandhakuti (ngôi chùa do ông xây dựng tại Isipatana). 17 vị Tỳ-kheo được
tuyển chọn từ các tu viện tại Sri Lanka được mời
đến để truyền giới Cụ túc cho Siri Devamitta
Dharmapāla. Đây là một sự kiện chưa
từng có trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ cũng như Sri Lanka. Trong quá khứ, các
nghi lễ như vậy chỉ được thực hiện ở Tích Lan bởi các Tỳ-kheo đến từ Miến Điện
và Thái Lan hoặc các tu sĩ Sri Lanka đi du học rồi thọ giới ở nước ngoài. Không
có trường hợp một Phật tử Sri Lanka được xuất gia và trở thành Tỳ-kheo tại nước
ngoài trước sự chứng minh của hội đồng các vị Tỳ-kheo đến từ Sri Lanka.
Anagarika
Dharmapāla qua đời vào ngày
29 tháng 4 năm 1933.
Câu nói cuối cùng của ông là: "Hãy để tôi chết sớm. Hãy để tôi được tái sinh.
Tôi không còn có thể kéo dài nỗi đau đớn của mình, tôi muốn được tái sinh hai
mươi lăm lần để truyền bá Phật pháp."
Trong một số khía cạnh, người ta so sánh
Dharmapāla với hoàng đế Asoka, Dutugemunu, Parakramabahu I, và với
Anāthapindika Setthi.
Người ta thường nhắc đến Dharmapāla
như một ân nhân của Phật giáo. Để vinh danh ông, năm 2014, Ấn Độ và Sri Lanka đã
phát hành tem bưu chính để kỷ niệm 150 năm ngày sinh của
Dharmapāla tại Colombo.
Chính phủ đã lấy tên ông để đặt tên một con đường trong thành phố, đó là đường
Anagarika Dharmapala Mawatha. Bộ phim “Anagarika
Dharmapāla Srimathano” dựa trên
cuộc đời thật của Dharmapāla đã được
Hòa thượng Kirama Wimalajothi Thera và Sunil T. Fernando sản xuất, công
chiếu vào năm 2015.
Rambukwella, Harshana, Politics and
Poetics of Authenticity: A Cultural Genealogy of Sinhala Nationalism.
UCL Press, 2018, tr.50.
Arnold Wright, Twentieth Century Impressions of Ceylon: its history,
people, commerce, industries, and resources, "Angarika Dharmapala",
Asian Educational Services, 2004, tr.119.
Alan Trevithick,
The Revival of Buddhist Pilgrimage at Bodh Gaya (1811-1949): Anagarika
Dharmapala and the Mahabodhi Temple,
Motilal Banarsidass Publishe, 2006, tr.55.
Alan Trevithick,
The Revival of Buddhist Pilgrimage at Bodh Gaya (1811-1949): Anagarika
Dharmapala and the Mahabodhi Temple,
Motilal Banarsidass Publishe, 2006, tr.42.
Sangharakshita, Anagarika
Dharmapala A Biographical Sketch and
other Maha Bodhi, Ibis
Publications,1988, tr.35-37