Phu nhân Thắng Man gặp Phật
thang man phu nhan
Chân Hiền Tâm
Vua Ba-tư-nặc lên ngôi sau khi Phật thành đạo không lâu. Lúc đầu, ông là người
bạo ác, bất tín, sau được Phật giáo hóa nên rất kính tin Phật pháp, và trở thành
vị đại ngoại hộ cho giáo đoàn của Phật ở thành Xá-vệ, thủ phủ của nước
Kiêu-tát-la. Còn phu nhân Mạt-lợi vốn là một đứa tớ gái. Một hôm Đức Phật vào
thành khất thực, do thấy tướng hảo của Ngài mà sinh lòng kính tin, cúng dường để
cầu hết kiếp tôi đòi. Nhờ công đức ấy, bà trở thành phu nhân của vua Ba-tư-nặc.
Do những nhân duyên tốt lành đó, những nhân duyên mà kinh Thắng Man phu nhân
hội gọi là “vừa chứng pháp xong”, vua và phu nhân bàn với nhau: “Con gái
Thắng Man của ta từ mẫn, sáng dạ, đa văn, trí tuệ. Nếu gặp được Như Lai thì đối
với pháp thậm thâm, sẽ chóng lãnh ngộ không còn nghi hoặc, ta nay phải khéo chỉ
bảo để nó phát lòng thành tín”. Nói rồi liền viết thư xưng tán công đức chân
thật của Như Lai, rồi bảo sứ quân Chân-đề-la mang thư đến thành Vô-đấu trao cho
phu nhân Thắng Man.
Thắng Man nhận được thư thì vui mừng tột bực, sinh tâm thật hiếm có. Bà hướng về
Chân-đề-la mà nói kệ:
Ta nghe danh Như Lai
Thế gian rất khó gặp
Lời này nếu chân thật
Phải cho ông y áo.
Nếu Phật Thế Tôn kia
Lợi ích thế gian hiện
Tất vì ta thương xót
Khiến ta thấy chân tướng.
Không phải ai nghe đến tên Phật cũng sinh tâm vui mừng và hiếm có. Thứ gì chợt
phát sinh trong hiện đời mà bộc phát mạch mẽ, là do quá khứ từng được huân tập
nhiều. Thánh A Nan không phải vô cớ vướng vào Ma-đăng-già. Chẳng qua đã có 500
kiếp làm vợ chồng với nhau. Vua Brahmadatta sau khi vừa hoàn thành việc học đạo,
đã vướng vào nạn ăn thịt người không thể dừng được, là do quá khứ từng làm quỷ
Dạ-xoa v.v... Do chủng huân tập Phật pháp sâu dày, nên vừa nghe đến tên Phật,
phu nhân đã sinh tâm hoan hỷ, sinh tâm thật hiếm có.
Có việc huân tập này là nhờ có thức thứ 8. Thức thứ 8 lưu giữ các nhân duyên đời
quá khứ dưới dạng chủng tử. Tuy nói thức thứ 8 lưu giữ nhưng thật là do các
chủng tử họp lại mà thành, không phải có một cái kho chứa các chủng tử đó. Tức
có chủng tử thì có thức thứ 8. Không có chủng tử thì cũng không có thức thứ 8.
Những chủng tử này, một khi đủ duyên sẽ hiện hành và phát tán tùy theo năng lực
của từng người. Nếu chủng nghiệp xấu huân tập sâu dày mà định tuệ hiện đời yếu
thì lực nghiệp huân tập sẽ dẫn phát mọi hành vi của mình, như vua bị tập ăn thịt
người làm chủ sai khiến tạo tác các ác nghiệp. Nếu nhân duyên hay định tuệ hiện
đời tốt thì khi nghiệp chủng xấu xuất hiện, có thể kịp thời tỉnh giác làm chủ,
không để nghiệp xấu hiện hành mà sinh tạo tác nơi thân và miệng.
Các nhà tâm lý học thời gần đây, qua nghiên cứu thực tiễn đã phải hình dung ra
cái gọi là vô thức và tiềm thức để giải quyết những hiện tượng tâm lý khó hiểu
của con người. Thực tế minh chứng cho giả thuyết có tồn tại phần vô thức này, là
khi nó được ứng dụng vào y học để trị bệnh, đạt được nhiều thành quả to lớn.
Cho nên, nếu phủ nhận kinh luận Đại thừa thì không thể nương đâu giải thích
những hiện tượng khó hiểu đang xảy ra ở thế giới này, cũng không thể theo kịp
những tiến hóa của nền khoa học kỹ thuật hiện đại, trong khi Phật học đã được
Einstein,
ông tổ của nền vật lý hiện đại cho rằng “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với
các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét
lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật
giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật
giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học."
Cũng nói, “Tôn giáo của tương lai sẽ là một
tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy
phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý
thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái
nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó.”
Nói đến nhất thể thì có lẽ chỉ có các bộ kinh Đại thừa mới đáp ứng được.
Sinh tâm hiếm có, vì trước giờ tâm bà không ở trạng thái này. Đó không phải là
tâm vui mừng của thế gian khi gặp việc vừa ý. Chỉ những ai tìm thấy niềm vui
trong pháp vị của chư Phật, mới cảm nhận được ít nhiều cái gọi là sinh tâm hiếm
có này. Thắng Man phu nhân hội là một bộ kinh Nhất thừa, nên hiện tượng
trên còn diễn tả tình trạng thay đổi tâm của một hành giả tu Phật. Đó là trạng
thái khi sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui…
Nói đến chân tướng là muốn nói đến tướng chân thật.
Chân nói đây, có thể là do đối với ngụy mà nói. Phật mà phu nhân muốn gặp phải
là một trong tam thân của chư Phật, không phải do ma Ba-tuần hóa ra như Tổ
Cưu-ba-cúc-đa
đã gặp. Cũng có thể là chân thể vô tướng với đầy đủ tướng và dụng vi diệu của
chư Phật, chính là Phật tánh trong mỗi chúng sinh. Vì Thắng Man phu nhân hội
là bộ kinh nói về Như Lai tạng thâm sâu, chỉ ra 5 loại trụ địa vô minh, cho
thấy Vô minh trụ địa là nền tảng khiến mọi phiền não, sở tri sinh khởi. Thành
nói đến chân Phật, chính là nói đến chân thể nhiệm mầu sẵn đủ trong mỗi chúng
sinh. Khi Phật xuất hiện hay Phật giáng sinh chính là lúc nhân ấy xuất hiện. Nhà
thiền gọi là kiến tánh, là thấy được tánh Phật trong chính mình. Điều kiện cần
là tâm bạn phải ở trạng thái tịch diệt, tánh Phật ấy mới có cơ hiển lộ. Nên nói
“Phu nhân vừa dứt lời niệm thì trên hư không Phật hiện ra với thân tướng chẳng
thể nghĩ bàn, đại quang minh chiếu khắp”.
Vì Phật tánh là thứ sẵn đủ trong mọi chúng sinh, nên chỉ cần tâm dứt được các
niệm tưởng, dù chỉ trong một thời tọa thiền ngắn, thì khả năng thấy được tánh
Phật ấy không phải khó. Điều kiện cần và đủ là không chạy theo sinh diệt cũng
không chấp vào tịch diệt, Phật tánh nhất định hiện tiền.
Chẳng thể nghĩ bàn, vì 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp là thân tướng của thiên vương hay
các bậc Thánh, không phải của thường nhân. Phật tánh không sinh không diệt,
không tăng không giảm, không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… tức Phật tánh không
phải là đối tượng bị biết (sở biết), cũng không phải là cái biết (năng biết),
nên nói chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩ bàn được thì đó chẳng phải là Phật tánh.
Nói đến nhân duyên gặp Phật, Pháp Tạng, Tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm nói trong
luận Đại thừa khởi tín nghĩa ký như vầy: Có hai cách gặp Phật. Một là có
cơ cảm với Phật. Hai là nương vào tam muội mà thấy Phật.
1/ Có cơ cảm với Phật: Một trong các cách để có cơ cảm với Phật là trong quá khứ
đã từng tu tập niệm Phật tam muội, nên hiện đời không cần nương vào tam muội mà
vẫn thấy được sắc thân Phật. Đây là nói Phật thân với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Đó là đối tượng của nghiệp thức con người.
2/ Nương nơi tam muội thấy Phật: Đòi hỏi tâm hành giả phải lóng lặng mới thấy
được Phật. Nói cách khác, thân tâm phải thanh tịnh thì Phật mới xuất hiện. Phật
nói đây, thô là chỉ cho Báo thân, tế là chỉ cho Phật tánh.
Báo thân có hai. Một là Tự thọ dụng thân. Hai là Tha thọ dụng thân.
- Tự thọ dụng thân là báo thân viên mãn, do chư Phật trải qua vô số kiếp tu tập
thiện căn tạo nên, khắp giáp cả pháp giới, thân và cõi chẳng lìa nhau, gọi là
Thật báo trang nghiêm độ. Thân này khi chưa thành Phật thì chư Bồ-tát chỉ được
nghe tên, không thể thấy.
- Tha thọ dụng thân, là do cảm ứng với từng căn cơ của chúng sinh mà hiện. Đây
là do chư Phật muốn chư vị Bồ-tát thọ đại pháp lạc, tiến tu thắng hạnh mà tùy
nghi ứng hiện. Thân này do Trí bình đẳng hiện ra, vì chúng Bồ-tát Thập địa mà
chuyển bánh xe pháp.
Phân thì thấy nhiều thứ mà thảy đều từ tâm hiện. Phật dù thấy từ ngoài đến, cũng
không ra ngoài tự tâm.
Đại quang minh, là chỉ cho quang minh của Phật. Ánh sáng phát ra từ thân Phật
gọi là quang. Ánh sáng ấy chiếu rọi vào vật thể gọi là minh. Tác dụng của quang
minh là phá trừ sự tối tăm, làm sáng tỏ chân lý và soi thấu chân tướng của mọi
sự vật.
Quang minh của Phật có hai là trí quang và thân quang.
Trí quang có hai nghĩa, là chiếu pháp và chiếu cơ. Chiếu pháp thì chân tục cả
hai cùng soi. Chiếu cơ thì ứng khắp quần sinh làm lợi ích.
Thân quang cũng có hai, là thường quang và phóng quang. Thường quang thì thường
chiếu vô ngại. Phóng quang thì chỉ xuất hiện khi ứng cơ giáo hóa. Ứng với cơ của
từng người mà hiện khởi, nên còn có tên là hiện khởi quang.
Phật xuất hiện rồi, Phu nhân Thắng Man cùng quyến thuộc thảy đều tụ lại, chắp
tay chiêm ngưỡng, vái Phật và xưng tán Đức Đạo Sư:
Diệu sắc thân Như Lai
Thế gian không thể bì
Cũng không thể nghĩ bàn
Cho nên con kính lễ.
Sắc thân Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, so với người đời
không ai có thể so bì, vì nó do vô lượng phước đức tạo thành. Nhưng đây không
nói người đời mà nói thế gian, tức bao gồm luôn chư thiên. Thiên vương cũng có
được các tướng đó, nên biết diệu sắc thân Như Lai nói đây không chỉ cho thân sắc
cõi trời hay cõi người mà chỉ cho pháp thân thường trụ. Chỉ có pháp thân Như
Lai, tướng thế gian mới không thể bì, cũng không thể nghĩ bàn. Đây tương ưng với
áo chỉ của kinh, lấy Nhất thừa làm tông chỉ.
Kính lễ diệu sắc thân Như Lai chính là kính lễ pháp thân Phật.
Sắc Như Lai vô tận
Trí tuệ cũng như vậy
Tất cả pháp thường trụ
Cho nên con quy y.
Pháp thân Như Lai không hình tướng, trùm khắp, nên nói vô tận. Luận Đại thừa
khởi tín
nói: “Pháp thân ấy là thể của sắc nên hay hiện sắc. Bởi tánh của sắc chính là
trí nên thể của sắc không hình, gọi là trí thân. Bởi tánh trí tức là sắc nên gọi
là pháp thân, khắp giáp tất cả chỗ.” Sắc và trí không hai nên sắc vô tận thì
trí cũng như vậy.
Tất cả pháp, với cái nhìn của thế gian là vô thường. Đây nói tất cả pháp thường
trụ là muốn nói đến thực tánh của vạn pháp. Luận Đại thừa khởi tín nói: “Vì
là tâm chân thật nên là tánh của tất cả pháp. Tự thể hiển bày soi rõ tất cả pháp
hư vọng.” Tướng các pháp là hư vọng, nhưng tánh các pháp thì thường trụ. Đó
là tướng Không nói trong kinh Bát-nhã. Đây muốn nhấn mạnh đến mặt tánh
chân thật này nên nói tất cả pháp thường trụ.
Nói “Tất cả pháp thường trụ” cũng là nói phu nhân Thắng Man đã nhận ra được mặt
tánh Không này của vạn pháp, là Phật tánh mà mọi người đều sở hữu. Quy y, là quy
y tánh Phật với đầy đủ thể, tướng và dụng này. Kinh Pháp bảo đàn nói: “Mỗi
người tự quán sát, chớ lầm chỗ dụng tâm. Kinh văn rõ ràng nói tự quy y Phật,
chẳng nói quy y với Phật khác. Tự Phật mà chẳng quy thì không chỗ nào y được.
Nay đã tự ngộ, mỗi người phải quy y Tam bảo của tự tâm. Trong thì điều hòa tâm
tánh, ngoài thì cung kính mọi người.”
Giáo lý của kinh Thắng Man là phần giáo thuộc Nhất thừa nên Tam bảo nói
đây chính là tự tánh Tam bảo. Quy y Tam bảo chính là quy y tự tánh Tam bảo,
không hướng ra ngoài quy y.
Phật chính là Giác. Quy y Phật là dùng cái giác này chiếu phá ngô ngã, thị phi
v.v… Tà mê chẳng sinh, thiểu dục tri túc, hay lìa tài sắc.
Pháp chính là Chánh.
Quy y Pháp là quy y chánh, niệm niệm không tà kiến. Không tà kiến thì không ngô
ngã, cống cao, tham ái, chấp trước.
Tăng chính là Tịnh.
Quy y Tăng chính là quy y tịnh. Đối với tất cả cảnh giới trần lao, ái dục, đều
không nhiễm trước.
Pháp thế gian là pháp duyên khởi, nên trong việc quy y nói đây cần xét đến mặt
tùy duyên của nó. Kinh Thắng Man phu nhân hội là kinh Nhất thừa, nên quy
y là quy y Phật, Pháp, Tăng của tự tâm. Đó là quy y Giác, Chánh và Tịnh. Việc
này đòi hỏi người tu phải biết Giác là gì, đã sống được với cái Giác của mình ít
nhiều, từ đó mới có thể triển khai ra Chánh và Tịnh. Cho nên, quy y tự tâm chỉ
dành cho những hành giả đã biết Giác, lực Giác đã khá mạnh, có thể tự mình chiếu
phá các tà niệm trong tâm v.v… Với Phật tử bình thường, dù đã tin tâm mình là
Phật, đã biết sử dụng cái Giác của mình, nhưng mức độ vẫn chưa mạnh, thì quy y
Tam bảo vẫn phải lấy quy y Tam bảo ngoài tâm làm chính. Đó là lý tùy duyên mà
một hành giả tu Phật cần nắm vững. Phải biết duyên mình ở đâu mà dụng pháp cho
đúng. Dụng pháp không đúng duyên thì như bệnh dùng lầm thuốc. Bệnh không hết mà
ngày thêm nặng. Ngô ngã, thị phi ngày càng lớn.
Khéo điều tâm lỗi ác
Cùng với bốn thứ thân
Đến chỗ bất tư nghì
Con nay xin kính lễ.
Bài kệ cho biết vì sao phu nhân kính lễ Đức Phật. Vì Phật đã khéo điều phục ba
nghiệp của mình đến chỗ không thể nghĩ bàn.
Tâm lỗi ác thuộc ý nghiệp. Bốn thứ thuộc thân cần điều phục là sát, đạo, dâm và
vọng ngữ nói trong kinh Lăng nghiêm. Sát, đạo, dâm thuộc thân nghiệp.
Vọng ngữ thuộc khẩu nghiệp. Đó là điều phục ba nghiệp. Người thế gian muốn sống
hạnh phúc, đều nên thực hiện các việc này trong cái duyên của mình. Người tại
gia có giới của người tại gia. Người xuất gia có giới của người xuất gia. Chính
là để điều tâm lỗi ác này. Vấn đề đặt ra ở đây là điều phục ba nghiệp đến chỗ
không thể nghĩ bàn. Đó là lúc năm thức ngoài chung thành Thành sở tác trí. Thức
thứ sáu riêng thành Diệu quan sát trí. Thức thứ bảy riêng thành Bình đẳng tánh
trí. Thức thứ tám riêng thành Đại viên cảnh trí. Bốn thức này, thể thì đồng
nhưng tùy theo tướng và dụng mà đặt tên, nên thấy có sai khác. Đại viên cảnh trí
riêng thành Pháp thân. Bình đẳng tánh trí riêng làm Báo thân. Thành sở tác trí
và Diệu quan sát trí chung làm Hóa thân.
Như vậy, điều tâm điều thân đến chỗ không thể nghĩ bàn, cũng chính là thành tựu
Phật quả.
Biết các pháp nhĩ diệm
Trí thân vô quái ngại
Với pháp không để mất
Nên con nay kính lễ.
Nhĩ diệm, kinh Lăng-già nói: “Biết nhân pháp vô ngã/ Phiền não và nhĩ
diệm/ Thường thanh tịnh không tướng/ Mà khởi tâm đại bi.” Thiền sư Hàm Thị
giải thích nhĩ diệm là sở tri. Phàm phu chấp thân ngũ ấm là ngã nên phiền não y
đó mà khởi. Phiền não này cùng với nghiệp hữu lậu làm duyên sinh khởi ra Phần
đoạn tử của chúng sinh. Nhị thừa thấy ngũ ấm vô ngã mà sở tri chưa quên, nên
cùng với nghiệp vô lậu làm duyên khởi sinh Biến dịch tử của thánh nhân. Chỉ có
Phật là soi thấu được phần sở tri vi tế này.
Sở tri là đối với năng tri mà nói. Năng tri là cái hay biết. Đối tượng của cái
hay biết gọi là sở tri. Năng tri và sở tri đều là sở hiện của Chân thể thanh
tịnh, do bất giác vọng động mà có. Hễ có sở tri thì nhất định còn năng tri. Năng
tri mất thì sở tri cũng mất. Bài tụng Xa-ma-tha
có câu: “Cái biết diệt mất, đối tượng cũng bị khiển trừ thì một bề vắng lặng.”
Cũng nói: “Nếu lấy cái biết dùng để biết lặng thì đây chẳng phải là cái biết
không duyên…” Thì biết, cảnh giới chứng được dù vi tế thế nào, nếu vẫn có
thể thấy, có thể biết thì đều thuộc sở tri. Đây gọi là nhĩ diệm. Vì biết cùng
năng biết chỉ là hệ quả của bất giác, nên cái biết đang dùng đây phải mất thì
chân thể mới hiển lộ. Trâu mất, người chăn cũng chẳng còn, mới thật sự trở lại
cội nguồn.
Biết các pháp nhĩ diệm là thấu được thực tánh của nhĩ diệm. Thấu được thì biết “Tất
cả không Niết-bàn/ Không Niết-bàn của Phật/ Không có Phật Niết-bàn/ Xa lìa giác
sở giác/ Hoặc có hoặc không có/ Cả hai thảy đều lìa.” Đây gọi là trí thân
của Phật. Trí thân của Phật xa lìa mọi nhị biên phân biệt, dù đó là Niết-bàn đối
với sinh tử, giác đối với sở giác. Xa lìa mọi nhị biên phân biệt nên “vô quái
ngại cố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.” Cứu cánh Niết-bàn
mà không có Niết-bàn của Phật, cũng không có Phật Niết-bàn.
Kính lễ sao cho xứng
Kính lễ không gì bằng
Kính lễ pháp tự tại
Kính lễ vượt nghĩ suy.
Kính lễ được lặp đi lặp lại nhiều lần cho thấy lòng tin kính và tha thiết của
phu nhân đối với Đức Phật. Rồi bà phát nguyện:
Xin từ mẫn hộ trì
Khiến pháp chủng tăng trưởng
Cho đến thân tối hậu
Thường ở trước Như Lai
Phước nghiệp con đã tu
Hiện nay đến cuối đời
Do lực thiện căn ấy
Nguyện Phật hằng nhiếp thọ.
Lời phát nguyện của phu nhân chỉ là mong có sự hộ trì để pháp chủng được tăng
trưởng. Kinh Thắng Man là kinh Nhất thừa, nên pháp chủng nói đó không chỉ
đơn thuần là mớ Phật pháp được huân tập từ vô lượng kiếp. Nó còn chỉ cho chủng
vô lậu đã hiện khởi. Nhà thiền gọi là kiến tánh, là thấy được tánh Phật trong
chính mình. Tánh ấy không tăng, không giảm, không lớn, không nhỏ v.v… sao có thể
nói tăng trưởng? Nói tăng trưởng là muốn nói đến phần tiêu trừ tập khí của hành
giả tu Phật. Cứ một phần tập khí được tiêu trừ thì một phần tướng và dụng của
tánh ấy hiển lộ. Bởi, “Đốn ngộ tuy đồng Phật/ Đa sinh tập khí thâm/ Phong
đình ba thượng dũng/ Lý hiện niệm du xâm.” Tuy chỗ nhận ra đồng với Phật,
nhưng do tập khí huân tập nhiều đời ẩn sâu bên trong, chỉ khởi khi đủ duyên, nên
đối duyên xúc cảnh, đủ duyên những tập khí này sinh khởi. Thêm vào đó, sự dấy
khởi liên tục trong tâm cũng là một loại tập khí được huân tập sâu dày, nên đốn
ngộ rồi, không có nghĩa là mọi niệm khởi đều dứt. Vì lý do đó, tâm chưa hoàn
toàn được trong lặng để tướng và dụng có thể phát huy hoàn toàn như Phật. Đây dụ
như gió đã dừng mà nước chưa hết dậy sóng. Lý thì đã hiện mà niệm vẫn còn khởi,
làm động tâm thanh tịnh.
Thân tối hậu là thân tối cùng trong sinh tử. Như thân A-la-hán hay Bích Chi Phật
là thân tối hậu, chấm dứt Phần đoạn sinh tử của chúng sinh. Thân tối hậu nói đây
là thân tối hậu của Bồ-tát, tức thành tựu Phật quả. Nguyện thường ở trước Như
Lai là nguyện giác tâm thường hiện tiền. Nguyện giác tâm thường hiện tiền thì
việc xin Phật hộ trì không phải như người đời, mang nhánh hoa nải chuối đến cầu
xin là xong. Nó phải được đánh đổi bằng phước nghiệp tu hành của bản thân.
Nhiếp thọ, là thu vào và gìn giữ. Thiện nghiệp một khi được huân tập mạnh thì
không những đưa đến cảnh giới vi diệu trong tương lai, mà còn có lực giúp hành
giả thẳng tiến trên đường thiện. Bạn nghĩ quấy hay làm quấy mà thấy bất an,
không thể làm được, là do thiện nghiệp đang nhiếp thọ bạn, khiến bạn không thể
sinh tâm bất thiện hay tạo bất thiện nghiệp. Thiện nghiệp nếu nhiếp thọ bạn thì
thứ gì là thiện sẽ được thu vào và giữ đó, thứ gì không phải thiện sẽ bị đẩy
lùi.
Tương tợ, một khi đã nếm được pháp vị sâu xa của Đại thừa, việc huân tập pháp vị
đã mạnh, thì những gì đúng với pháp vị ấy tâm mới nhiếp thọ, không thì không
nhiếp thọ. Cho nên, tu hành mà tâm không trụ được pháp vị của Đại thừa là do
việc huân tập chưa được sâu, mới dễ động tâm, nghe cái gì thuận với dục tâm là
chạy theo.
Thiện nghiệp nói đây không chỉ dừng ở việc giữ giới làm lành, mà đã ở giai đoạn
hàng phục vọng tâm. Dòng vọng niệm đã dứt được lực tương tục. Tức tuy còn niệm
mà sự tương tục đã không còn lực như ở phàm phu, niệm tỉnh giác khá tương tục.
Công đức thiện nghiệp của phu nhân chính là lực hộ trì che chở cho chính phu
nhân, cũng chính là cái nhân giúp phu nhân nhận được lực hộ trì của chư Phật.
Tâm thanh tịnh cộng với nguyện lực sẽ giúp hành giả nhận được lực hộ trì này.
Như nước yên thì trăng hiện. Đây là chỗ khó nghĩ bàn. Thiền sư Hàm Thị nói: “Quả
vị của Như Lai đã chứng đến cùng tột, bởi nghĩ đến chúng sinh còn luân hồi nên
thị hiên báo thân và hóa thân. Từ cảnh giới chân thật mà vào biển sinh tử.
Bồ-tát y lời dạy của Như Lai, từ biển sinh tử, phát căn bản trí, trải qua năm
ngôi vị tu hành cho đến Đẳng giác. Thuận nghịch đều đến mé giác nên gọi là vào
chỗ giao tiếp với nhau.”
Khi Thắng Man nói kệ xong, bà cùng quyết thuộc và hết thảy đại chúng đồng đảnh
lễ dưới chân Phật. Lúc ấy Thế Tôn liền vì Thắng Man nói kệ:
Ta xưa cầu Bồ-đề
Từng khai thị cho bà
Nay bà gặp lại ta
Đời sau cũng như vậy.
Đây là lý do, chỉ vài dòng của cha mẹ bà đã phát khởi lòng tin đối với Phật,
cũng do nhân duyên sâu dày này mà chỉ cần khởi tâm muốn thấy Phật, phu nhân liền
thấy được Phật. Phật là người khai thị cũng là người nhiếp thọ bà. Không phải
chỉ một đời mà đã vô lượng đời ở quá khứ. Vị lai cũng như vậy.
Sau đó phu nhân được Phật thọ ký sẽ thành Phật với pháp hiệu là Phổ Quang Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Nhân mùa Phật đản, nguyện cho mình và người đều được thấy Phật như phu nhân
Thắng Man, đời đời thấy Phật, được Phật nhiếp thọ và hộ trì cho đến khi thành
Phật. Phật đản sinh, chính là Phật của tự tâm đản sinh, dung nhiếp hết mọi loài.