Hạnh nguyện chư Phật và nguyện lớn của Phật Dược Sư
hanh nguyen
HẠNH NGUYỆN CHƯ PHẬT VÀ
NGUYỆN LỚN CỦA PHẬT DƯỢC SƯ
Thích Nguyên Hùng
Dẫn nhập
Chúng
sanh hữu tình đều sống theo tập quán nghiệp: sanh ra, tồn tại, già nua, bệnh tật,
và kết thúc bằng cái chết. Hàng triệu, hàng tỉ năm tiến hoá, các sanh loại hữu
tình, vô tình nói chung, con người nói riêng, đã thay đổi nhiều, rất nhiều;
trong đó, xã hội loài người có nhiều tiến bộ vượt bậc với những thành tựu khoa
học, có khả năng chinh phục và khám phá vũ trụ mà trong kho từ vựng thời xa xưa
có lẽ đã gọi là có ‘phép thần thông’ mới thực hiện được. Dẫu vậy, chúng sanh vẫn
cứ quảnh quanh trong vòng sanh tử với những tâm tư nhỏ hẹp, thấp hèn!
Thật
vậy, con người bây giờ có thể ngồi yên một chỗ mà thấy, nghe, biết mọi vấn đề
đang xảy ra trên thế giới. Con người bây giờ cũng có thể bay lượn vào vũ trụ
bao la hay lặn sâu dưới đáy biển, đi xuyên vào lòng đất, kiểu người xưa gọi là
đằng vân, độn thổ. Ấy nhưng, cuộc tồn sanh của bao sanh loại vẫn không có gì đổi
thay, vẫn cứ loanh quanh trong thế giới hệ này với trò chơi sanh tử đan xen với
niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc khổ đau tiếp nối không ngừng.
Từ
đó mới thấy, hễ có một chúng sanh ‘giác hữu tình’, hay chỉ mới ‘sơ phát tâm’ là
đã có thể làm cho thế giới chấn động sáu cách, cung ma nghiêng đổ là điều dễ hiểu!
Vì sao vậy? Vì trong giới hạn của thế giới này, những anh hùng cái thế, những đế
vương hùng mạnh, những khối óc bác học phi thường… cho dù có tâm nguyện, khát vọng
hay tham muốn đến tột cùng cũng chỉ để làm bá chủ toàn cầu, xưng hùng, xưng bá;
hay như Chuyển luân thánh vương tên là
Đảnh Sanh, vốn cai trị châu Diêm-phù-đề, sau xâm chiếm và cai trị bốn châu
thiên hạ, vậy mà lòng tham vẫn chưa đủ, ông còn khởi tưởng chiếm đoạt Thiên
Đế-thích, để một mình làm Vua chư thiên, rồi tất
cả cuối cùng đều kết thúc bằng cái chết đọa lạc, chưa nói đến sự nghiệp xây
dựng cơ đồ, mộng đế vương đã lấy đi bao sanh mạng, máu chảy thành sông, xương
chất thành núi, biết bao khổ luỵ, tang thương, ‘nhất tướng công thành vạn cốt
khô’, chứ có mấy ai mưu cầu hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại, tịnh Phật
quốc độ, đưa chúng sanh đến chỗ không sanh, không già, không bệnh, không chết?
Cho nên,
khi một chúng sanh phát tâm Bồ-đề hay lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô
thượng Bồ-đề mà nội hàm của nó là ‘thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh’ nhằm
đạt được giải thoát ngoài ba cõi thì mọi thứ danh vị ở thế gian trở thành hoa
đốm giữa hư không hay có giá trị không hơn đôi dép rách!
Định danh
Tâm Bồ-đề
hay chí nguyện mong cầu tuệ giác vô thượng nói đơn giản là nguyện, praṇidhāna, mà theo Thành thật luận, quyển 9, thì nó vừa là
tuệ tâm sở, vừa là dục, thắng giải, tín tâm sở và có hai loại, một là nguyện cầu
đạo Bồ-đề, hai là nguyện làm lợi ích cho kẻ khác. Đây là cửa chính yếu vào đạo,
nói sư Thiền sư Thật Hiền: “Cửa chính yếu để nhập đạo thì sự phát tâm đứng đầu,
việc khẩn cấp để tu hành thì sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập thì chúng
sanh độ nổi, tâm phát thì Phật đạo thành được. Cái tâm quảng đại không phát,
cái nguyện kiên cố chẳng lập, thì dẫu trải qua đời kiếp nhiều như cát bụi, cũng
y nhiên vẫn ở trong phạm vi luân hồi. Tu hành dẫu có, cũng toàn là lao nhọc, khổ
sở một cách vô ích. Do đó mà kinh Hoa
nghiêm đã nói, quên mất tâm Bồ-đề mà tu hành các thiện pháp thì gọi là hành
động theo ma vương. Quên mất còn thế, huống chi chưa phát. Nên muốn học Như Lai
thừa thì trước phải phát Bồ-đề nguyện, không thể chậm trễ.”
Luận
Đại trí độ cũng nói: “Trang nghiêm Phật
độ là việc lớn, chỉ tu hành công đức không thể thành được, phải cần có nguyện lực;
cũng như sức bò tuy hay kéo xe, nhưng phải có người cầm cương mới có chỗ đến.
Nguyện thanh tịnh quốc độ cũng như vậy, phước như xe bò, nguyện như người cầm
cương.”
Nguyện
còn gọi là bổn nguyện, nhân nguyện, thệ nguyện. Du-già sư địa luận, quyển 45 liệt kê 5 loại nguyện là phát tâm nguyện,
thọ sanh nguyện, sở hành nguyện, chánh nguyện và đại nguyện; trong đó, chánh
nguyện lại phân làm hai là tổng nguyện và biệt nguyện; đại nguyện lại phân
thành 10 nguyện là cúng dường nguyện, thọ trì chánh pháp nguyện, nhiếp pháp thượng
thủ nguyện, tăng trưởng chúng sanh tâm hạnh nguyện, giáo hoá chúng sanh nguyện,
tri thế giới nguyện, tịnh Phật quốc độ nguyện, đồng tâm đồng hành nguyện, tam
nghiệp bất tận nguyện, và thành Bồ-đề nguyện.
Thành duy thức luận, quyển 9, cũng nói 4 hoằng thệ nguyện
là tổng nguyện, 48 nguyện của Phật Di Đà, 12 nguyện của Phật Dược sư, 500 đại
nguyện của Phật Thích Ca… là biệt đại nguyện, tức nguyện lớn riêng của từng người.
Tựu trung, Bồ-đề
tâm “là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong
cảnh tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để
giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả
những người cùng cảnh ngộ. Bồ-đề tâm, đó là ý chí kiên cường bất khuất của một
người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn
khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung
quanh ta.”
Đại nguyện chư Phật
Tất
cả chư Phật đã thành, đang thành và sẽ thành đều chứng đắc quả vị giác ngộ vô
thượng chánh đẳng chánh giác từ sự thành tựu hạnh nguyện của mình hay nói cách
khác là thành tựu viên mãn Bồ-đề nguyện. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuở còn trôi
lăn trong sinh tử luân hồi, chí nguyện nóng bỏng và ý chí kiên cường bất khuất
của Ngài đã bùng phát trong ngục tù Hoả xa. Ngài tự thuật: “Này chư vị! Trong vô lượng kiếp xa xưa, Ta đã từng
tạo nghiệp xấu nơi thân, khẩu, ý rất nặng nề. Do nghiệp ấy mà Ta bị đọa vào tám
địa ngục lớn, trong đó có địa ngục Hỏa xa. Trong địa ngục Hỏa xa, cứ hai người
kéo lấy một chiếc xe lửa. Ngục tốt ngồi hai bên đầu xe, bậm miệng, nghiến răng,
trừng mắt phun ra lửa dữ, mắt miệng tai mũi đều phun ra lửa, thân thể to lớn, mạnh
mẽ hung bạo hành hạ tội nhân. Bấy giờ, người bạn tù bên cạnh Ta sức lực đã mỏi
mòn, không thể nào bước đi nỗi nên chậm chạp thụt lùi phía sau, liền bị ngục tốt
dùng chĩa sắt đâm vào ngực, lấy gậy sắt đập vào lưng, máu chảy lênh láng thân
thể như tắm. Người ấy vô cùng thống khổ kêu la thảm thiết, hoặc gọi cha mẹ, hoặc
gọi vợ con, nhưng cũng chỉ vô ích mà thôi. Lúc ấy, Ta tận mắt chứng kiến cảnh
tượng những người chịu khổ như vậy trong lòng vô cùng thương xót. Rồi do từ tâm
sinh khởi mà Ta phát tâm Bồ-đề, Ta nguyện thay thế cho tất cả những tội nhân, bởi
những tội nhân không còn sức chịu đựng, Ta xin ngục tốt đừng đánh đập họ nữa mà
hãy khởi lòng lân mẫn. Ngưu đầu ngục tốt nghe Ta nói vậy lập tức nổi giận đùng
đùng, cầm chĩa sắt, roi sắt vừa đâm và đánh vào đầu Ta, khiến Ta chết liền.
Nhưng kỳ lạ thay, cũng ngay lúc ấy Ta thoát khỏi nạn một trăm kiếp trong địa ngục
Hỏa xa. Ta nhờ phát tâm Bồ-đề mà thoát khỏi trọng tội ở địa ngục Hỏa xa.” Từ đó, Đức Phật nỗ lực tu
tập, hành Bồ-tát đạo cho đến ngày thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
không còn thối chuyển.
‘Nguyện
đại chúng sanh thọ vô lượng khổ’ chính là tâm nguyện Bồ-đề của Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni lúc mới sơ phát tâm. Và với Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì như
vầy: “Nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị mọi thứ bịnh
khổ hành hạ mà không ai cứu giúp, không nơi nương tựa, không có y sĩ, không có
dược liệu, không có thân thuộc, không có nhà cửa, nghèo nàn lắm khổ, thì danh
hiệu của con, một khi đi qua thính giác của họ, là bịnh khổ tan biến, thân tâm
an lạc, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng đầy đủ tất cả, cho đến thực hiện được tuệ
giác vô thượng.”
Dược
Sư đại nguyện
Rõ
ràng chỉ có chư Phật, chư Bồ-tát mới có những đại nguyện như vậy, những chí
nguyện cao cả, tự mình gánh vác trách nhiệm lớn lao gánh đi những bệnh tật, khổ
đau của chúng sanh, sẵn sàng xả bỏ thân mạng vì sự tồn tại của Chánh pháp và vì
ích lợi của tất cả hữu tình. Với chí nguyện lớn lao như vậy, nên khi “Đức Thế
Tôn mạng chung ở trời Đâu Suất, biết sẽ vào thai mẹ, lúc ấy chấn động tất cả đất
trời, có ánh sáng vi diệu quảng đại chiếu khắp thế gian cho đến chỗ u tối, cũng
không có gì ngăn che được; nghĩa là nơi nào mặt trời, mặt trăng này dù có đại
như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng không chiếu
rọi ánh sáng đến được, thì tất cả nơi ấy đều được chiếu ngời. Chúng sanh ở các
nơi ấy do thấy ánh sáng nhiệm mầu này đều mỗi mỗi phát sanh nhận thức rằng: ‘Có
một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời! Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời!”
Còn
với Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì “bản thân ánh áng rực rỡ chiếu soi vô
số thế giới hệ. Thân ấy lại được trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt của bậc
đại trượng phu và tám mươi tướng phụ. Lại làm cho mọi người không khác gì với
con.” Và “thân như ngọc lưu ly, trong ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, ánh
sáng to lớn và chiếu tỏa xa rộng. Công đức đồ sộ, lại khéo an trú. Những tia
sáng rực rỡ, dệt nhau như mạng lưới, và tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng
sanh tối tăm được soi sáng cả, nên tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp.”
Ánh
sáng rực rỡ chiếu soi vô số thế giới hệ, chiếu đến nơi mà mặt trời, mặt trăng
dù có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng
không chiếu rọi ánh sáng đến được, thì chỉ duy nhất là ánh sáng của từ bi và
trí tuệ, là ánh sáng của tự tánh bình đẳng nơi mọi chúng sanh và chư Phật.
Thật
vậy, hết thảy chúng sanh vốn đều có đủ quang minh biến chiếu, ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp, như trong kinh Như Lai
tạng
đã nói, “Hết thảy chúng sanh đều có Như Lai tạng, quang minh rực rỡ, ba mươi
hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, xưa nay đều có đủ.” Chỉ vì chúng sanh bị vô
minh che lấp, chưa từng khai mở, cho nên bị ẩn khuất mà chưa hiện ra. Một khi tu
hành thành Phật thì có thể như thật chứng tri điều này. Do đó, kinh Hoa nghiêm mới nói: “Lạ lùng thay! Lạ
lùng thay! Hết thảy chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng, trí tuệ Như Lai, nhưng
vì vọng tưởng chấp trước nên chưa chứng được.” Trong tâm cảnh của Phật, Ngài
nhìn thấy hết thảy chúng sanh đều bình đẳng với Ngài. Khi Phật chứng đắc Vô thượng
chánh đẳng giác, Ngài nhìn thấy chúng sanh trong đại địa chẳng ai không phải là
Phật, chúng sanh và Phật bình đẳng!
Kinh
Như Lai tạng từng nêu 9 thí dụ để nói
rõ ý nghĩa chúng sanh vốn có Phật tánh, trong đó cũng lấy lưu ly báu để thí dụ.
Phật tánh của chúng sanh, như vật báu lưu ly thanh tịnh không tì vết, cho dù bị
vùi lấp trong ô nhiễm nhưng bản tánh của nó vẫn trơn láng, sáng trong, không tổn
thất một phân hào. Phật tánh của chúng sanh cũng y như vậy, cho dù bị trôi lăn
trong bùn dơ sanh tử luân hồi cũng không vì vậy mà mất đi tự tánh bản nhiên
thanh tịnh. Dược Sư Như Lai đã triệt để quét sạch bóng tối vô minh, tẩy trừ nhiễm
ô phiền não, chân thân Phật tánh hiển bày cho nên ví thân như ngọc lưu ly vậy.
An lập đạo lớn
Phật tánh vốn bình đẳng trong tất cả mọi
chúng sanh, nhưng chúng sanh như gã cùng tử bao nhiêu năm lưu lạc tìm kiếm
miếng cơm manh áo, sống trong đói rách bơ vơ, khiến cho tâm tư trở nên hạ liệt,
thấp kém, bần cùng, khư khư ôm lấy mặc cảm, bằng lòng làm một kẻ tôi tớ hèn
mọn. Cho nên, khi Như lai xuất hiện ở đời là phải làm năm 5 việc: Chuyển Pháp
luân, thuyết pháp độ cha mẹ, khiến người không tin kiến lập lòng tin, chưa phát
tâm Bồ-đề khiến phát tâm Bồ-đề, thọ ký cho Phật tương lai. Nghĩa là bằng mọi phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào đạo, khai thị
cho chúng sanh biết thế nào là Như Lai chân tử, hóa sinh từ trong lòng Chánh
pháp. Và Phật Dược Sư thực hiện điều này bằng cách: “Nguyện con sau này,
khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ đi theo tà đạo đều được làm cho ở yên
trong đạo Giác ngộ, những người tu theo Thanh văn, Duyên giác đều được xây dựng
bằng pháp Đại thừa.”
Có thể nói, đại nguyện thứ
hai và thứ ba của Phật Dược Sư là kiến tạo nền văn minh vật chất; đại nguyện thứ
tư đặc biệt chú trọng đến nhận thức chánh tri, chánh kiến, tức là kiến tạo nền
văn minh tinh thần. Nghĩa là, bằng mọi phương tiện, mà hơn hết là bằng bi và
trí, Đức Phật Dược sư đã phát nguyện, nếu có chúng sanh hữu tình nào không tin
nhân quả thiện ác, phủ nhận công đức của Tam bảo, mạt sát chân lý, tạo các tội
ác sát, đạo, dâm, vọng, đang hướng vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… tức là lạc
mất chánh đạo, đi vào tà đạo, thì Phật Dược Sư nguyện đưa tất cả những chúng
sanh hữu tình ấy ra khỏi đường tà, thoát ly ác thú, vĩnh viễn an trú nơi đạo Bồ-đề.
Biển chúng thanh tịnh
Mặc dù đã nỗ lực an trú
chúng sanh vĩnh viễn nơi đạo Bồ-đề, nhưng chúng sanh căn tánh chậm lụt, nghiệp
trọng phước khinh, trên bước đường học và hành đạo bồ-tát không sao tránh khỏi
lỗi lầm. Cho nên, trong tương lai, khi thành Phật, giả sử có vô lượng vô biên
chúng sanh hữu tình tu hành phạm hạnh trong chánh pháp của Phật Dược sư, Ngài đều
khiến cho không phạm lỗi lầm: “Nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng,
thì vô số người tu hành phạm hạnh trong chánh pháp của con, con làm cho tất cả
được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại. Giả sử phá phạm đi nữa,
nghe danh hiệu con rồi là phục hồi thanh tịnh, không rơi vào đường dữ.”
Phạm hạnh là chỉ cho hết thảy hạnh thanh tịnh,
hoặc chỉ cho người xuất gia giữ giới không dâm dục, hoặc chỉ cho hết thảy giới
hạnh mà Phật đã chế. Tu hành tịnh hạnh ở cõi Phật Dược Sư, người thọ giới,
không luận là thọ giới Tỳ-kheo, giới Sa-di, giới tại gia, giới Bồ-tát… hễ đã
tham dự vào pháp hội Dược Sư, nghe pháp của Dược Sư, niệm danh diệu của Dược Sư…
thì hết thảy đều được viên mãn, giới thể không bị sứt mẻ. Giới sức mẻ tức là phạm
giới một phần, hoặc phạm khinh cấu tội. Nhờ oai đức từ quang gia bị của Phật Dược
Sư, người thọ giới, hoặc người thọ giới mà bị sức mẻ, đều được thanh tịnh cho đến
viên mãn. Nói cách khác, nương tựa Tịnh độ của Phật Dược Sư để tu tập sẽ dễ
dàng thành tựu viên mãn tam tụ tịnh giới, khiến cho biển chúng thường luôn
thanh tịnh.
Trong kinh Tăng nhất A-hàm có nói, Đức Phật ra đời
trước hết là đối với người chưa thọ giới thì khiến cho thọ giới, người đã thọ
giới rồi thì giúp họ giữ giới. Tuy nhiên, trong thực tế, sau khi thọ giới không
phải ai cũng có khả năng nghiêm trì, ngay trong thời Phật tại thế còn có nhiều
thánh đệ tử không thọ trì viên mãn, huống chi hàng phàm phu phiền não thâm trọng
ngày nay? Do đó, trong Phật pháp có pháp môn sám hối. Nhưng dường như Phật Dược
Sư còn tiên liệu vào đời mạt pháp ắt hẳn có người thọ giới mà không giữ giới,
hoặc có người phạm giới mà không biết sám hối, cho nên trong bổn nguyện của
mình, tiến thêm một bước nữa trong sự cứu độ, Ngài nguyện: Giả sử có chúng sanh
huỷ phạm cấm giới thì chỉ cần nghe được danh hiệu của Ngài, hay nghe được danh
hiệu của chư Phật, giới thể sẽ trở lại thanh tịnh. Thanh tịnh tức là tội chướng
tiêu trừ. Tội chướng tiêu trừ thì tự nhiên không đọa ác thú. Ác thú là ba đường
ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng sanh nhờ nghe thánh hiệu của chư Phật rồi
như pháp sám hối thì được miễn đọa ba đường ác, đó là phương tiện mà cũng là
lòng từ bi của chư Phật nói chung, Phật Dược Sư nói riêng vậy.
Lời kết
Không phát thệ nguyện thì
trọn không thành Phật đạo. Phước của thệ nguyện không thể ghi kể, dẫn đến chỗ
cam lồ diệt tận.
Cho nên, dù chỉ tu một ngày một đêm hai mươi bốn giờ cũng nên phát nguyện,
huống chi tận vị lai kiếp tu hành lẽ nào nguyện không phát? Cho nên, khi Thiện
Tài Đồng Tử vừa phát tâm Bồ-đề thì Bồ-tát Văn-thù đã huấn thị rằng: “Lành thay,
lành thay, thiện nam tử, nếu lìa bỏ tín căn, tâm tư mệt mỏi, thấp kém, không
tinh cần học hỏi, ý chí thoái hóa, thỏa mãn với một ít công đức, thành tựu chỉ
một chút thiện căn, không thiện xảo thực
hành các hạnh và nguyện, không được thiện tri thức nâng đỡ, không được chư
Phật hộ niệm, thì không thể biết được
pháp này, không thể biết, không thể thâm nhập, không thể triệt để, không thể
tin hiểu, không thể tư duy, không thể thông suốt, không thể sở đắc lý thú như vậy,
sở hành như vậy, an trú như vậy.”
Không thiện xảo thực hành
các hạnh và nguyện thì không thể hiểu biết được Phật pháp cao siêu nhiệm mầu thế
nào. Nói cách khác, không phát nguyện Bồ-đề dấn thân hành đạo làm lợi lạc chúng
sanh thì còn cách xa bến giác. Do đó, không phải Phật Dược Sư, mà chư Phật, chư
Bồ-tát đã thành, đang thành và sẽ thành đều có hạnh nguyện của riêng mình. Mười
hai đại nguyện của Phật Dược Sư, mà trong đó chúng ta có thể thấy hằng hà sa số
đại nguyện khác, mục đích là làm lợi lạc hữu tình. “Nguyện sau này khi con
thành Phật”, con sẽ làm gì? Làm lợi lạc chúng sanh. Thành Phật đơn giản là
thành người tỉnh thức, luôn luôn sống trong tỉnh thức để vận dụng bi và trí làm
lợi lạc chúng sanh, nếu không, thành Phật để làm gì?