Đọc Tạng Pali: Đừng Trụ Bất Kỳ Pháp Nào
doc tang
Nguyên
Giác
Kinh
Kim cương có một lời Đức Phật dạy thường
được chư tôn đức chú ý:
“- Cho nên Tu Bồ Đề!
Chư Bồ-tát Ma Ha Tát nên sanh tâm trong sạch như thế, là
chẳng nên khởi tâm trụ sắc, chẳng nên khởi tâm trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp,
ưng vô sở trụ mà sanh kỳ tâm.” (Kinh Kim cang Bát-nhã Ba-la-mật, bản dịch của
Tỳ-kheo Thích Duy Lực, chương 10: Trang nghiêm Tịnh độ).
Không
trụ vào bất kỳ nơi đâu, không trụ vào bất kỳ pháp nào, xa lìa tất cả những dính
mắc… Pháp “ưng vô sở trụ” thường được dịch trong tiếng Anh là “non-clinging”
hay “free from clinging”…
Lời
dạy “ưng vô sở trụ” được tìm thấy nơi đâu trong Tạng kinh Pali?Có thể trả lời
ngắn gọn rằng, lời dạy này ghi rất nhiều lần trong trong Tạng kinh Pali, và ưng
vô sở trụ là pháp tối thắng.
Đặc
biệt, Đức Phật thường dạy pháp “ưng vô sở trụ” trong các bản kinh được gọi là
thời kỳ “Early Buddhism” – còn gọi là, Phật giáo Sơ thời, tức là, những bản kinh
được suy đoán là trong những năm đầu tiên thuyết pháp của Đức Phật. Nhiều kinh
này không mở đầu với “Như thị ngã văn” và thường là những kinh ngắn, làm thành
các vần thơ để chư Tăng học thuộc lòng. Điển hình, kinh Pháp cú (The Dhammapada) là tập họp nhiều kinh Phật giáo Sơ thời.
Các
kinh Phật giáo Sơ thời trong “The Parayana Vagga: The Chapter on the Way to the
Far Shore” – qua bản dịch trên Access to Insight (Accesstoinsight.org)- đều ngắn
gọn, trực tiếp, không nói gì về Bát chánh đạo, Tứ niệm xứ, Tứ thiền, Thất giác chi…
Các kinh Phật giáo Sơ thời cho thấy đạo Phật qua lời Đức Phật được cô đọng
trong một vài lời ngắn gọn để thực tập, làm thành vần thơ để có thể dùng như
kinh nhật tụng. Và trong các kinh này, rất nhiều trường hợp cho thấy nhiều vị
cư sĩ hay các du sĩ đạo khác sau khi nghe lời dạy xong, tức khắc đắc một trong
tứ thánh quả.
Khi
nói “vô sở trụ” hay nói “không chỗ trụ” hay “vô trụ” là nói về thức
(consciousness), tuy chỉ là một trong năm uẩn, nhưng lại là kẻ dẫn lối đưa đường
đi khắp ba cõi.
THỨC
DẪN ĐI BA CÕI
Thức
khi trở thành một ý định (intention), đó là mời gọi cho những cuộc sinh tử luân
hồi kế tiếp. Chỗ này nên ghi nhận: Không nên hiểu tái sinh hay sinh tử luân hồi
là có một “cái tôi” nào trôi nổi, trôi lăn; chỉ nên hiểu đó là dòng ý thức
(stream of consciousness) chảy xiết vô thường, cuốn trôinhóm ngũ uẩn quen gọi
là “tôi” hay “ta” đi trong ba cõi.
Nhưng
thức là gì?
Trong
kinh SN 22.79, Đức Phật giải thích:
“Và tại sao người gọi
đó là ‘thức’? Bởi vì nó nhận biết, do vậy nó được gọi là thức. Nó nhận biết những
gì? Nó nhận biết những gì chua, đắng, hôi, ngọt, có chất dầu alkaline hay
không, mặn, và không mặn. Bởi vì nó nhận biết, nó được gọi là thức.”(1)
Nếu
chỉ thuần nhận biết như thế, thức sẽ không dẫn chúng ta đi khắp cõi luân hồi.
Thức dẫn chúng ta đi sinh tử là vì thức đã trở thành ý niệm miên man trưởng dưỡng,
gọi là tâm phan duyên, được Đức Phật phân tích kỹ trong kinh Lăng nghiêm, trong khiđời thường gọi là
“tâm khỉ vượn” (monkey mind) – tiếng Pali là papañca, được Bhikkhu Bodhi dịch
là "mental proliferation", và được Bhikkhu Nanamoli dịch là
"mental diversification."
Đức
Phật dạy trong kinh SN 12:
“Chư Tăng, những gì
mình có ý định, và những gì mình lên kế hoạch, và bất cứ những gì mình có
khuynh hướng nghiêng về: điều này trở thành một nền tảng để duy trì ý niệm. Khi
có một nền tảng, tất sẽ có sự hỗ trợ để dựng lập ý niệm. Khi ý niệm được dựng lập,
và rồi trưởng dưỡng, tất sẽ sinh ra sự sinh tồn kế tiếp tương lai. Khi có việc
sinh ra sự tái sinh tương lai, vậy là tương lai sẽ lại sinh ra, già đi và chết,
buồn sầu, than khóc, đau đớn, khổ não và tuyệt vọng. Như thế là cội nguồn của
toàn bộ mớ đau khổ này…
…Khi thức không được dựng
lập, và không được trưởng dưỡng, sẽ không có cuộc tái sinh tương lai.”(2)
Tới
đây, chúng ta có thể nhớ tới kinh Pháp cú,
câu đầu tiên là “Tâm dẫn đầu các pháp…”
Nghĩa là, khi là thức (hiểu là tâm chúng sinh), sẽ cứ mãi sinh tử luân hồi,
nhưng khi trở thành trí, chính trí tuệ này sẽ dẫn chúng ta qua bờ bên kia.
Nghĩa là, lúc đó bụi sẽ rơi rớt, và lúc đó khả năng nhận biết này chính là Niết-bàn
của các vị A-la-hán khi đã đoạn tận tham-sân-si, vốn nguyên sơ chính là “tâm chói sáng” (kinh AN1.49-52 -
Pabhassara Sutta).
Như
thế, làm sao để thức trở thành trí? Hay có phải, vốn từ nguyên sơ, thức đã là
trí tuệ rồi?
Cũng
nhìn thêm rằng, riêng thức sẽ không dẫn được chúng ta đi sinh tử luân hồi, mà cần
có đủ duyên.
Trong
kinh AN 3.76 Bhava Sutta, Đức Phật dạy: “Nghiệp
là cánh đồng, thức là hạt giống, và tham ái là ẩm nước.” (…kamma is the
field, consciousness the seed, and craving the moisture).
Trong
một giải thích về lý nhân duyên, bản dịch kinh Đại duyên trong Trường bộ, bản dịch
của HT.Thích Minh Châu có đoạn vấn đáp:
“21. Trước đã nói: "Do duyên thức, danh
sắc sanh". Này Ananda, phải hiểu như thế nào câu nói: "Do duyên thức,
danh sắc sanh"? Này Ananda, nếu thức không đi vào trong bụng của người mẹ,
thời danh sắc có thể hình thành trong bụng bà mẹ không?
- Bạch Thế Tôn, không!”
(3)
Nghĩa
là, duyên theo thức, sẽ có danh-sắc, sẽ có thân và tâm hình thành trong bụng mẹ.
Tóm
lược các đoạn trên, chúng ta đã thấy khi thức lan man, trưởng dưỡng… là sức mạnh
dẫn đi sinh tử luân hồi. Câu hỏi nơi đây là, thức dựa vào đâu để lan man, trưởng
dưỡng như thế?
Câu
trả lời: Thức dựa vào cảnh giới các uẩn để tham luyến, và đó là động lực dẫn đi
miên man như thế.
Tới
đây, Đức Phật dạy pháp “giữ tâm vô sở trụ,” nghĩa là đoạn tận chỗ y chỉ của thức,
và muốn thế, là phải đoạn tận tham luyến.
Kinh
SN 22.53, bản Việt dịch của HT.Thích Minh Châu viết:
“Này các Tỳ-kheo, ai
nói như sau: “Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ
sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh
của thức”, sự việc như vậy không xảy ra.
Này các Tỳ-kheo, nếu vị
Tỳ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt
đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỳ-kheo, nếu vị Tỳ-kheo đoạn
tận tham đối với thọ giới… đối với tưởng giới… đối với hành giới… Này các Tỳ-kheo,
nếu vị Tỳ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên
được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.
Không có chỗ y chỉ ấy,
thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát. Do giải thoát nên
được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do
không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn.”(4)
Như
thế, chúng ta thấy trở lại lời dạy trong kinh Kim cang, rằng khi chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu, tức là đã
ưng vô sở trụ, đó chính là cảnh giới của giải thoát. Tới đây, chúng ta khảo sát
một nhóm kinh khác, có tên là “Parayana Vagga - The Chapter on the Way to the
Far Shore.” Và sẽ có cảm giác rằng kinh Kim
cang như dường được chư Tổ Bắc tông soạn theo nhóm kinh này.
BƯỚC QUA BỜ BÊN KIA
Qua
bờ bên kia hiểu là pháp để tới Niết-bàn.Cội nguồn của nhóm kinh Lối đi qua bờ kia được Thanissaro
Bhikkhu giải thích trong bài “The Parayana Vagga: The Chapter on the Way to the
Far Shore”(5)rằng một nhóm 16 đạo sĩ trẻ, học trò của một
đạo sĩ Bà-la-môncó tên là Bavari, tới tham vấn với Đức Phật, hỏi về cách nào để
giải thoát tối hậu. Đức Phật trả lời tuần tự từng câu hỏi của 16 đạo sĩ, trong
đó có một số vị đã thiền tập mức độ cao.
Nhóm
kinh Cula Niddesa ghi rằng, nghe xong các câu Đức Phật trả lời, 15 đạo sĩ đầu
tiên tức khắc trở thành bậc A-la-hán; trong khi đạo sĩ thứ 16 là ngài Pingiya đạt
Pháp nhãn, nghĩa là quả Dự lưu. Tuy nhiên, bộ luận về Cula Niddesa ghi rằng
ngài Pingiya đắc thánh vị thứ ba, tức quả Bất lai.
Đức
Phật trong nhóm kinh này nhắc đi nhắc lại hình ảnh dòng nước lũ – trận lụt của
sinh, già, chết; của nỗi buồn và thương khóc; của căng thẳng và đau khổ. Như
Lai nói rằng pháp tu là phải tìm đường vượt qua dòng nước lũ lụt để tới bờ bên
kia. Tất cả vướng mắc đều làm chúng ta bị cuốn chìm theo dòng nước lũ.
Thanissaro
Bhikkhu viết rằng có chứng cớ cho thấy 16 đoạn đối thoại (của Đức Phật với 16 đạo
sĩ trẻ) được chư tôn đức trong các thế kỷ đầu của Phật giáo tôn kính. Có 5 kinh
(một trong kinh Tương ưng bộ, bốn trong kinh Tăng chi bộ) thảo luận về một số
câu thơ trong nhóm 16 kinh này. Có nghĩa là, nhóm kinh này có trước nhiều kinh
trong Tương ưng bộ và Tăng chi bộ.
Có
nhiều chứng cớ cho thấy những năm đầu tiên thuyết pháp, chưTăng và nhiều cư sĩ dùng
nhóm 16 đoạn đối thoại làm kinh nhật tụng. Bản Anh dịch kinh Tăng chi bộ của Ni
trưởng Sister Upalavanna có một kinh ghi rằng nữ cư sĩ Velukantaki Nanda mỗi rạng
sáng đều tụng đọc lớn tiếng nhóm 16 kinh Parayana Vagga. Trong một lần xuống nhắc
vị nữ cư sĩ này cúng dường chư Tăng hướng dẫn bởi ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên sắp tới thành phố Velukandaka, vua cõi trời Vessavana phải tôn kính, chờ nữ
cư sĩ đọc trọn 16 kinh mới tới thưa chuyện.(6)
Các
kinh này có thể đọc đầy đủ qua bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu ở kinh
Tiểu bộ, Kinh Tập, chương năm,phẩm Con đường đến bờ bên kia.(7)
Nơi
đây, chúng ta sẽ trích dịch một số lời dạy của Đức Phật trong nhóm kinh này, dựa
vào các bản Anh dịch từ Access to Insight.
Trong
Kinh Sn 5.1, Như Lai trả lời câu hỏi của chàng thanh niên Ajita, cho thấy tỉnh
giác (mindfulness) sẽ ngăn chận dòng nước lũ, và rồi dòng nước lũ đó sẽ bị cắt
đứt bởi trí tuệ (wisdom). Chỗ nay nên hiểu, tỉnh giác là công cụ để đối trị
tham dục, nhưng khi trí tuệ bật sáng thì không cần đối trị gì, vì dòng sông
tham dục tự khô cạn. Giới luật được giải thích là phải ly tham dục, giữ tâm
trong sạch và vắng lặng, tỉnh giác khéo léo trong mọi trường hợp.
“Như Lai: Bất cứ dòng
sông nào trên thế giới, chỉ có tỉnh giác mới ngăn cản và hạn chế chúng, và bằng
trí tuệ chúng bị cắt đứt.
“Ajita: Đó là trí tuệ
và tỉnh giác. Bây giờ thân và tâm, kính thỉnh Như Lai giải thích: thân tâm tịch
diệt thế nào?
“Như Lai: Thân tâm tịch
diệt hoàn toàn, bằng cách tịch diệt ý thức.
“Ajita: Kính thỉnh Như
Lai giải thích về giới luật (rule of conduct).
“Như Lai: Chớ tham dục,
giữ tâm trong sạch và vắng lặng, nhà sư phải tỉnh giác, khéo léo trong mọi hoàn
cảnh.”
Trong
Kinh Sn 5.2, Đức Phật trả lời câu hỏi của chàng thanh niên Tissa-metteyya, đặc
biệt nói về tư duy thâm sâu.
“Tissa-metteyya: Ai an
lạc trong đời, ai không dao động. Người trí biết gì về 2 phía, và không dính mắc
chính giữa? Ngài gọi ai là đại nhân? Ai vượt qua được thêu dệt, tham ái?
“Đức Phật: Người đứng
giữa dục lạc, sống được đời thánh hạnh, luôn tỉnh giác, ly tham; nhờ tư duy
thâm sâu, nhà sư sẽ giải thoát, sẽ không còn dao động. Người tư duy đó biết cả
2 phía, và không dính mắc chặng giữa. Ta gọi đó là đại nhân. Người đó đã vượt
qua được thêu dệt, tham ái.”
Câu
hỏi rằng, 2 phía là gì, và chặng giữa là gì? Access to Insight có ghi chú rằng,
kinh AN 6.61 kể về cuộc thảo luận của nhiều vị sư trưởng lão về bài thơ trên với
ý nghĩa “2 phía” và “chặng giữa.” Có 6 trưởng lão giải thích như sau, ý kiến dị
biệt nhau:
-
Xúc là phía thứ nhất, cội nguồn của xúc là phía thứ hai, và tịch diệt của xúc
là nằm trong chặng giữa.
-
Quá khứ là phía thứ nhất, tương lai là phía thứ hai, và hiện tại là chặng giữa.
-
Thọ vui là phía thứ nhất, thọ đau đớn là phía thứ hai, và không vui cũng không
khổ là chặng giữa.
-
Danh (tâm) là phía thứ nhất, sắc (thân) là phía thứ hai, và thức là chặng giữa.
-Nhóm
6 trần (sắc thanh hương vị xúc pháp – tức là: cảnh thấy được, âm thanh nghe được,
mùi hương ngửi được, vị nếm được, cảm xúc nhận từ thân, hình ảnh ý nghĩ hiện
trong tâm) là phía thứ nhất, nhóm 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là phía
thứ hai, và thức là chặng giữa.
-
Tự nhận mình có ngã (self-identity) là phía thứ nhất, cội nguồn của cái tự nhận
mình có ngã là phía thứ hai, và tịch diệt cái tự nhận mình có ngã là chặng giữa.
Đó
là ý kiến khác nhau từ 6 trưởng lão. Khi quý ngài trình với Đức Phật, Đức Phật
trả lời rằng tất cả 6 giải thích trên đều là thích nghi, khéo thuyết, nhưng khi
Đức Phật đọc bài thơ trả lời chàng thanh niên, chỉ nghĩ tới giải thích đầu
tiên.
Tới
đây, chúng ta có thể suy nghĩ: với cả 6 giải thích nêu trên, là tất cả những gì
chúng ta nhận ra trong cõi này. Như thế, khi Đức Phật dạy, không để vướng hai
bên, không để dính mắc chặng giữa… có nghĩa lời dạy rút gọn là: vô sở trụ,
không dính mắc vào bất kỳ pháp nào, dù là “quá khứ, hiện tại, vị lai,” dù là
căn-trần-thức, dù là thân-tâm-thức, dù là “ngã, phi ngã”…
Trong
kinh Sn 5.15, Đức Phật trả lời chàng thanh niên Mogharaja, dạy rằng hãy nhìn thế
giới như là rỗng rang, bứng gốc rễ cái nhìn về “tự ngã”, và đó là giải thoát.
“Mogharaja: … người tu
nên nhìn thế giới như thế nào, để sẽ không bị Thần Chết nhìn thấy?
“Đức Phật: Luôn luôn tỉnh
giác nhìn thế giới như là rỗng rang, Mogharaja; bứng gốc cái nhìn về tự-ngã,
như thế ngươi sẽ có thể vượt qua cái chết. Nhìn thế giới như thế, người tu sẽ
không bị Thần Chết nhìn thấy.”
Nhưng
rỗng rang (empty) là gì? Trong bản Anh dịch kinh Tương ưng bộ, nơi trang 1164
trong sách bản in trên giấy "The Connected Discourses of the Buddha: A New
Translation of the Samyutta Nikaya," nơikinh "Empty is the World,"
do ngài Bhikkhu Bodhi dịch, Đức Phật giải thích cho ngài Ananda rằng vì sắc,
nhãn thức, nhãn xúc (tuần tự với thọ, tưởng, hành, thức) đều "không có ngã
và không thuộc về ngã cho nên nó rỗng rang... Do vậy thế giới rỗng rang." Tâm kinh Bát-nhã có lẽ soạn ra từ kinh
này.Tâm kinh cũng được xem là bản cô
đọng của kinhKim cang.
Như
thế, các lời dạy vừa dẫn trong nhóm kinh trong phẩm Con đường đến bờ bên kia, có thể tóm gọn:
-Về cách nhìn: hãy thấy khắp thế giới là
rỗng rang, vì không hề có gì là ngã hay ngã sở, thực tướng chính là rỗng rang
vô tướng. Đây là cốt tủy Bát-nhã Tâm kinh.
-Về pháp đối trị: hãy vô sở trụ, không
dính mắc tâm vào bất kỳ pháp nào, không dính tâm vào quá-hiện-vị lai, không dính
tâm vào căn-trần-thức. Đây là cốt tủy kinh Kim
cang.
.
ỨNG
DỤNG TRONG ĐỜI THƯỜNG
Chúng
ta có thể ứng dụng cách nào trong đời thường, trong khi các pháp này diệu dụng
mãnh liệt như thế? Trong nhóm kinh Qua bờ bên kia, ngay khi nghe Đức Phật nói xong,
15 chàng thanh niên đạo sĩ tức khắc đắc
quả A-la-hán, trong khi chàng thứ 16 đắc quả Bất lai. Nếu chúng ta lập tức vô sở
trụ được, hay nếu lập tức nhìn được thế giới như là rỗng rang vô tướng, là
xong, sẽ không còn gì để viết, để nói, để bàn nữa.
Chúng
ta đang đứng trên dòng nước lũ của sinh tử, của tham sân si… và trong thế giới
phải cạnh tranh để sinh tồn, không thể nào tránh được các phiền não trong thế
gian.
Trong
khi chư tôn đức Tăng Ni phải học rất nhiều – như học về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo,
và thiên kinh vạn quyển – người cư sĩ chúng ta không có nhiều thì giờ, do vậy
nên học những pháp ngắn gọn, có thể ứng dụng hiện tiền… sao cho đi đúng hướng
và có sự an lạc tức khắc. Nghĩa là, một phút tu, là một phút an lạc. Và trong
khi làm việc, giao tiếp ngoài đời… chúng ta tất sẽ gặp những hoàn cảnh bất như
ý, nên tu làm sao có thể giữ tâm an trong mọi hoàn cảnh.
Mặc
khác, nếu đã từng trải qua thời gian tu với các pháp, chúng ta đều có thể ứng dụng
chung với nhóm kinh trong phẩm Con đường đến bờ bên kia.
Nếu
bạn đang tu pháp chánh niệm về cái “bây giờ và ở đây,” vẫn nên giữ pháp tu đó,
xem pháp tu chỉ như cây gậy đi đường, nhưng đồng thời cần tỉnh giác rằng chớ
nên dính mắc vào ngay cả cái “bây giờ và ở đây”, cần vô sở trụ mới thực sự giải
thoát… Đi đứng nằm ngồi đều giữ nên tâm như thế.
Nếu
bạn đang tu Thiền Lâm Tế, nên ghi nhận là hoàn toàn không có gì mâu thuẫn cả,
vì “vô sở trụ” là câu thứ tư trong Tứ liệu giản. Câu đầu, "Có khi đoạt
nhân không đoạt cảnh" là khi gặp cảnh, luôn luôn phòng hộ tâm mình. Câu thứ
nhì, "Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân" là khi gặp cảnh, hãy nhìn tất
cả cảnh như thế là như thế thôi (như thị tướng, như thị tánh, như thị thể...)
không có tâm nào khác để phan duyên. Câu thứ ba, "Có khi nhân cảnh đều đoạt"
là khi gặp cảnh, thấy tâm và cảnh đều tự đặt trong chỗ như thị lặng lẽ. Câu thứ
tư, "Có khi nhân cảnh đều không đoạt" là khi gặp cảnh, hoàn toàn vô sở
trụ, không có gì để nắm giữ cả, tâm và cảnh đều rỗng rang, không có gì dính mắc.
Tự nghiệm hoài trong tâm, bạn sẽ thấy cả 4 câu đều ứng dụng hay vô cùng tận.
Nếu
bạn đang tụng kinh Pháp hoa, hãy nhớ
rằng kinh Pháp hoa hay vô cùng tận. Kinh
này dạy khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Lục Tổ Huệ Năng dạy ngài Pháp Đạt,
“…nói tri kiến Phật là ở nơi tự tâm của ngươi, chẳng phải Phật bên ngoài. Bởi
vì tất cả chúng sanh tự che khuất ánh sáng của tự tánh, tham ái cảnh trần, phan
duyên bên ngoài, nhiễu loạn bên trong, cam chịu trần lao hành hạ, làm nhọc Ðức
Thế Tôn từ chánh định ra, khổ tâm khuyên dạy bằng đủ mọi cách, khiến ngừng nghỉ
các duyên, chớ nên hướng ngoại tìm cầu.” (tríchkinh Pháp bảo đàn, bản dịch của HT.Duy Lực, phẩm Cơ duyên). Cũng là một
nghĩa với vô sở trụ.
Nếu
bạn chưa tu gì hết, hãy tìm họctheopháp Văn-Tư-Tu (Nghe và học, Suy nghĩ nghĩa
lý, Tu tập), theo các đề tài: tin sâu nhân quả, quy y, thọ giới, tập niệm hơi
thở, tập lý luận theo lý nhân duyên (tức nhiên sẽ tin rằng không có gì là tự
ngã), vô thường… Khi bạn quy y và thọ giới, là đã theo một vị thầy rồi, nhưng
sau đó nên tìm đọc, tìm nghe từ nhiều vị thầy khác. Không nên phân biệt tông
phái, hãy nhớ rằng Phật giáo Sơ thời không có chuyện tông phái, và lúc đó lời Đức
Phật dạy rất ngắn gọn.
Trong
xã hội, không phải nghề nào cũng hợp với chánh mạng. Khi bạn thọ giới, sẽ được
vị thầy giải thích. Nhưng dễ sanh tâm phan duyên nhất là ở nghệ thuật sân khấu,
nơi nhan sắc và âm thanh dễ làm lay động lòng người. Nếu bạn nhìn cảnh sân khấu
trước mắt, hay đang nghe ca sĩ hát, hãy tự suy nghĩ rằng Đức Phật đã dạy là
không nên sinh tâm trụ vào tấtcả những gì mình thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc
nơi thân, và ý thức… Suy nghĩ như thế,
chính lúc đó, bạn thực sự là người vẫn còn đứng trong dòng nước lũ, nhưng đang
vững chắc bước dần sang bờ bên kia.
Ngắn
gọn, Đức Phật dạy rằng hãy luôn luôn tỉnh giác, hãy nhìn thế giới là rỗng rang
không thực tướng, và hãy ưng vô sở trụ. Cốt tủy là như thế. Bây giờ, bạn hãy lắng
nghe dịu dàng từng hơi thở của bạn, tuổi thọ chúng ta đang ngắn dần từng hơi thở
đó. Bạn hãy lắng nghe dịu dàng từng hơi thở xem, hãy cảm nhận vô thường đang ngấm
vào ngay nơi hơi thở đó… Ngay khi bạn tu như thế, tức khắc là an lạc.
GHI CHÚ:
(1)
SN 22.79 - Khajjaniya Sutta. Bản dịch
Bhikkhu Thanissaro. "And why do you call it 'consciousness'? Because it
cognizes, thus it is called consciousness…”
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.079.than.html
(2)
SN 12, bản dịch Bhikkhu Bodhi. “...When consciousness is unestablished and does
not come to growth, there is no production of future renewed existence.” https://suttacentral.net/en/sn12.38
(3)
Kinh Đại duyên (Mahànidàna sutta) - http://thuvienhoasen.org/a224/15-kinh-dai-duyen-mahanidana-sutta
(4)
Kinh Tham luyến - Upaya Sutta - http://www.phapluan.net/dieuphap/access_to_insight/TUONG_UNGBO/Upaya%20Sutta_SN_22_53.htm
(5)
The Parayana Vagga http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/thanissaro/parayanavagga.html
(6)
“Velukantaki Nanda having got up in the last watch of the night was reciting
loudly the Parayana Vagga…” - http://obo.genaud.net/dhamma-vinaya/mnl/an/07_sevens/an07.050.upal.mnl.htm
(7)
Con đường đến bờ bên kia - http://thuvienhoasen.org/a1548/chuong-05-tren-duong-den-bo-ben-kia