Trà đạo của Châu Quang (Marata Juko)

tra dao

Trà đạo của Châu Quang (Marata Juko)

Chân Hiền Tâm

 

Trà có nguồn gốc từ Trung Quốc, du nhập vào văn hóa của nhiều quốc gia trong đó có Nhật Bản.

Đầu tiên là vào thế kỷ XII, Sư Vĩnh Tây (Eisai) sang Trung Hoa tham học với Thiền sư Hư Am Hoài Sưởng, về nước ông mang theo một số hạt trà để trồng và phổ biến tác dụng của trà và cách thức uống trà.

Khoảng thời gian sau đó, trà được sử dụng rộng rãi trong giới quý tộc.

Đến thế kỷ XIV, sư Châu Quang (Marata Juko), đệ tử của Thiền sư Nhất Hưu, thường hay ngủ gật ngay cả những nơi công cộng. Sư đi trị bệnh, thầy thuốc khuyên Sư uống trà. Những cơn ngủ gục chấm dứt.

Châu Quang thấy tác dụng của trà có thể giúp ích cho kẻ tu đạo, cũng có thể làm phương tiện dẫn đạo, nên đã đưa lễ tiết vào việc uống trà, gọi là Trà đạo. Trà đạo có từ đó và sư Châu Quang là người sáng lập ra nó[1].

Thể của Trà đạo

Một lần, khi thấy việc Trà đạo hoàn tất, Thiền sư Nhất Hưu hỏi Châu Quang:

- Ông dùng tâm nào để uống trà?

Châu Quang trả lời:

- Vì khỏe mạnh mà uống trà.

Nhân đó, Thiền sư Nhất Hưu đưa Sư công án uống trà của Triệu Châu. Tích của công án đó như vầy:

Thiền sư Triệu Châu hỏi một vị Tăng mới đến:

- Từng đến đây chưa?

Tăng thưa:

- Đã từng đến.

Triệu Châu bảo:

- Uống trà đi!

Triệu Châu hỏi một vị Tăng khác:

- Từng đến đây chưa?

Tăng thưa:

- Chưa từng đến.

Triệu Châu nói:

- Uống trà đi!

Viện chủ thấy Tăng từng đến hay Tăng chưa từng đến, đều trả lời một câu “Uống trà đi!”, lấy làm lạ hỏi:

- Vì sao người từng đến cũng bảo “Uống trà đi!”, người chưa từng đến cũng bảo “Uống trà đi!”?

Triệu Châu gọi:

- Viện chủ!

Viện chủ đáp:

- Dạ!

Triệu Châu nói:

- Uống trà đi!  

Uống trà đi! Vẫn là lời nói thừa, dùng tiếp độ kẻ hậu sinh. Nhưng cũng không thừa, bởi không có nó lấy gì làm kế dẫn đạo? Cho nên, công án người xưa, bàn rộng một chút liền thấy rất thừa. Không rộng một chút, hậu sinh thời nay lại không có phần. Công án Triệu Châu nuôi sống huệ mạng bao đời, đâu thể đống khối không thể trồng trọt, vì thế đành thừa.

Nhất Hưu đưa công án uống trà cho Châu Quang và hỏi:

- Có học Tăng xin Thiền sư Triệu Châu chỉ dạy “Đại ý Phật pháp”. Triệu Châu đáp: “Uống trà đi!”. Với việc này ông hiểu thế nào?

Châu Quang không trả lời.

Thiền sư Nhất Hưu sai thị giả đem đến một chén trà. Ngay khi Châu Quang bưng chén trà, ông liền hét lớn. Chén trà rơi xuống đất. Châu Quang vẫn không động đậy.

Khi Châu Quang quay đầu kiếu từ, Thiền sư Nhất Hưu gọi:

- Châu Quang!   

Châu quay đầu lại:

- Đệ tử đây!

Nhất Hưu hỏi:

- Chén trà rơi xuống đất, ông còn trà uống không?

Châu Quang trả lời:

- Đệ tử vẫn uống trà.

Thiền sư Nhất Hưu chưa thôi:

- Đã chuẩn bị dời đi, sao còn nói đang uống trà?

Châu Quang thưa:

- Đến đó vẫn uống trà.

Thiền sư Nhất Hưu quở:

-  Ta hỏi ông tâm đắc của việc uống trà, ông chỉ nói bên này rồi bên kia, chẳng thấy chỗ tâm đắc. Vô tâm uống trà là thế nào?

Châu Quang điềm tĩnh thưa:

- Trà vô tâm. Liễu xanh hoa thắm.

Thiền sư Nhất Hưu ấn khả. Trà đạo hoàn thành.

Trà, tính của nó vốn không xấu, không tốt, không lợi, không hại. Lợi, hại, tốt, xấu là vì đặt nó trong duyên. Như báu mani, vốn trong suốt không có màu sắc, chỉ tùy sắc quanh xanh thì hiện xanh, sắc quanh đỏ thì hiện đỏ. Là tùy duyên mà hiện sắc. Không duyên thì không sắc có thể nói. Tất cả pháp thế gian đều như thế.

Trà, chữa được bệnh gật gù của Châu Quang mà thành tốt. Nhưng không tốt nếu dùng quá nhiều cho các phụ nữ gầy yếu[2]. Từ việc xấu hay tốt ấy mà trà thành lợi hay hại. Lợi hại tùy duyên mà thành. Đó không phải thực chất của trà. Vì trà không có chất thực, tùy duyên mà hiển lợi hại. Nên đồng một câu ba chữ, tùy duyên mà có sai khác.

Kẻ từng đến, cứ tùy duyên mà tiêu nghiệp cũ. Tu mà không tu. Không tu mà tu. Uống trà đi! Tùy duyên làm lợi ích chúng sinh. Tiêu trừ tập khí của mình.

Người chưa đến, cứ bổn phận hiện thời mà làm. “Uống trà đi!”. Thời tiết nhân duyên hội đủ, một chữ trà còn không thể lọt, nói là ba chữ. “Uống trà đi!”.   

Căn cơ đồng thì cách uống trà thành đồng. Căn cơ khác thì cách uống trà thành khác. Mà uống trà không hai không khác. Cho nên, tùy căn khí mình, nhận trà uống sao cho được lợi ích. Triệu Châu không thiếu phương tiện. Triệu Châu không thiếu lòng từ. Chỉ là con cháu đời sau không dám thừa đương, mất tính tùy duyên, sợ mất cái chỗ cố định Thầy Tổ truyền trao. Phật pháp không tính cố định. Tùy duyên mà lập, sao cho chúng sinh được lợi ích nhất.

Cái chỗ mình tưởng cố định, thật ra cũng không cố định. Chỉ là “bất biến” mà lại “tùy duyên”. “Tùy duyên” mà lại “bất biến”.  

Bất biến nếu không tùy duyên, rơi vào ngoan không đoạn diệt. Thế giới con người đâu thể hiện khởi như nay. Thể không, đủ duyên bày đủ, theo vòng nhân quả mà đi, chỉ khác ở chỗ mê ngộ. Bởi vậy, “Thực tế lý địa không nhận mảy trần, trên cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp”[3]. Không phải “không” là không ngơ, không có gì hết, vô sự theo kiểu làm biếng. “Không”, là ngay thể đủ duyên bày hiện mọi thứ. Thể “không” khác với không ngơ ngoại đạo là ở chỗ này.      

Tùy duyên nếu không bất biến, chúng sinh lưu chuyển vô cùng. Có đó mà không thể nhận. Tam thân, Tứ trí, diệu dụng sâu mầu chẳng được mảy may. Chỉ vì lưu chuyển theo duyên, nhận tướng tùy duyên, quên thể bất biến. Chẳng trách Viện chủ đương thời, gần bậc Long Tượng, vẫn lấy làm lạ vì sao chỉ dùng ba chữ mà tiếp muôn người. Chỉ một cái ấy, sống được, ngàn muôn phương tiện tiếp người ứng ra từ đó, không phải nghĩ suy, không phải tư lường. Thể đồng mà dụng thì tại muôn phương. Thể thì trùm khắp. Dụng do ứng duyên mà thành. Duyên hết dụng ẩn. Thể thì không ẩn không hiện. Uống trà đi!

Thiền sư Thiên Cơ đêm Phổ trà dạy chúng: “Các ông nay uống trà, nếu không biết hương vị của trà thì đồng cây đá, nếu biết hương vị của trà, ấy là phàm phu. Làm sao bỏ được hai bên có không này?”[4]. Uống trà đi!

Dụng của Trà đạo

Châu Quang gầy dựng Trà đạo, Nhất Hưu hỏi đến, trả lời: “Vì khỏe mạnh mà uống trà”.

Ở mặt lợi ích, trà có tác dụng ngăn mỡ phát triển, nên có thể giúp giảm cân (trà trắng). Có tác dụng chống oxy hóa, nên tốt cho tim mạch (trà xanh). Điều trị rối loạn lo âu nên là loại thuốc an thần tốt (trà hoa cúc). Có khả năng chống viêm nên giúp giảm những rắc rối có liên quan đến tiêu hóa (hồng trà). Có khả năng mở rộng các mạch máu nên có thể làm giảm huyết áp (trà dâm bụt)[5]. Bản thân người viết cũng nhận thức được từ thực tế rằng: Trà làm ta tỉnh táo, hưng phấn tinh thần, tăng thể lực, và đúng là có loại trà làm giảm huyết áp. Nếu biết sử dụng đúng cách mà không lạm dụng quá mức, trà có mặt tích cực của nó. Nếu không đúng cách, nó sẽ hiển lộ mặt tiêu cực là trà có hại. Pháp duyên khởi là vậy. Không thể tránh khỏi mặt hại khi đã nhận ra mặt lợi của nó.

Mặt hại của trà hiển lộ khi chúng ta dùng trà không đúng duyên. Nói dễ hiểu là chúng ta dùng trà không đúng cách, không hợp với trạng thái tinh thần cũng như thể chất của mình. Để chỉnh cái không đúng cách này, phải cần đến Đạo.

Đạo, là con đường, phương cách, phương tiện. Như trăm ngàn con đường dẫn về cội nguồn. Nguồn ấy cũng gọi là Đạo. Như “Pháp” dùng để chỉ cho muôn sự muôn vật ở mặt hiện tướng, nhưng “Pháp” cũng dùng để chỉ cho tánh thể không của mọi hiện tướng đó. Bởi tướng thì không ngoài thể, từ thể hiện tướng. Từ Đạo hiển Đạo (con đường), nên Đạo không ngoài Đạo, sao cho chúng sinh y đó, thể xác lẫn tinh thần đều được khỏe mạnh. Rốt sau thể nhập Phật pháp giới tánh.

Nói đến cái Đạo giúp người khỏe mạnh ở mặt thể chất, trà được khuyến cáo cần dùng đúng duyên.

Đúng duyên, là muốn nói đến các duyên như tính chất trà, thời gian uống trà, liều lượng trà uống trong ngày... các thứ đó phải được dùng phù hợp với cơ thể của người uống trà, sao cho trà thành lợi ích. Như người huyết áp thấp thì không nên dùng các loại trà có tính làm giảm huyết áp. Người thần kinh nhạy cảm thì không nên dùng trà trước khi ngủ. Trà, không nên uống khi bụng đói, không nên uống khi đã pha qua ngày. Không nên uống quá nhiều trà trong ngày. Không nên uống trà pha với các thứ khiến trà mất đi tác dụng của nó, như trà pha đường hay uống với thuốc v.v…  

Trà có tính năng giúp tăng thể lực, trừ sự mệt mỏi giải đãi, tạo sự hưng phấn. Tuy vậy, nếu ta dùng nó như loại bảo bối đáp ứng nhu cầu công việc quá tải thường xuyên, thì ngoài việc bản thân bị lệ thuộc vào trà, lâu dần sức khỏe cũng sút sa trầm trọng. Vì đã dùng nó như loại doping tạo sự hưng phấn nhất thời. Do dùng dài lâu, không thể tránh được những kết quả xấu.   

Đó là Đạo của trà được dùng ở mặt lợi ích thể chất.

Những thứ như vậy, không cần phải có phần Đạo mà kẻ lập bày là một Thiền sư.

Trong phần vấn đạo của Thiền sư Nhất Hưu đối với Châu Quang, Đạo trong Trà đạo không dừng ở mặt lợi ích thể chất mà chủ yếu là khai phát được phần tâm linh sâu mầu của người uống trà. Thứ mà tất cả chư Phật và chúng sinh đồng có. “Ta hỏi ông chỗ tâm đắc của việc uống trà...”. Châu Quang trả lời: “Trà vô tâm. Liễu xanh hoa thắm”.

“Trà vô tâm” là tinh thần của loại Trà đạo mà Châu Quang đã bày ra. “Năng lễ sở lễ tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”. Người lạy và Phật được lạy, tánh vốn không tịch. Lạy Phật bằng cái tâm không tịch ấy thì năng sở đều mất, cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn. Trà và kẻ uống trà tánh vốn không hai, chỉ vì bất giác lưu chuyển mà phân năng sở, trên cái năng sở ấy lại khởi phân biệt ngon, dỡ, thơm, hôi… mà luân hồi sinh tử triền miên.

Châu Quang bày Trà đạo, vốn muốn chúng sinh nhận lại cái chỗ trước khi lưu chuyển ấy, mà vô tâm chính là chỗ sinh nhai khi đối duyên tiếp cảnh. Song chúng sinh, trôi lăn đã lâu, tâm không thể ngay đó rời khỏi sinh diệt. Không nhớ nghĩ quá khứ thì tơ tưởng đến tương lai, không sống được với giây phút hiện tại, nên đầy đủ đó mà không thể nhận. Lập bày lễ tiết cho việc uống trà, chính là phương tiện giúp chúng sinh dừng sự lưu chuyển, đặt tâm vào điểm hiện tại.

Người đời nay, tâm như khỉ vượn chuyền cây, mọi thứ tức tốc hối hả như bộ máy công nghệ thời đại. Phong cách chậm rãi thư thả rất cần để khách tìm lại cho mình những khoảng bình yên.

Nói cách khác, tinh thần của Trà đạo chính là uống trà trong chánh niệm.

Chánh niệm, là không đây cũng không kia, mà phương tiện của nó là chuyên tâm vào việc pha trà hay uống trà. Pha trà biết đang pha trà. Đưa tay cầm chén, biết đang đưa tay cầm chén trà v.v… Như Phật dạy chư vị Tỳ-kheo trong bài kinh Thân hành niệm[6]: “Thở vô dài, biết thở vô dài. Thở vô ngắn, biết thở vô ngắn … khi đi biết tôi đi, khi đứng biết tôi đứng. Thân thể được sử dụng thế nào, vị ấy biết thân thể như thế ấy. Lại nữa, này các Tỳ-kheo! Khi bước tới bước lui biết việc mình đang làm. Khi co tay duỗi tay biết việc mình đang làm. Khi mang bát, mang y biết rõ việc mình đang làm … Vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh… ”. Đó là phương cách giúp lắng đi cái tâm vọng động mà uống trà. Đặt mọi tư duy phiền não qua một bên, trong không gian yên bình, vắng lặng.

Mọi nghi lễ bày ra trong việc uống trà chỉ là làm sao để những kẻ trong buỗi lễ trà đều có phần sống của mình trong giây phút hiện tại. Đối với nghi thức Trà đạo Nhật Bản, hương vị của trà không đóng vai trò chính như cái tên được gắn lên của nó. Chỉ có một loại trà duy nhất dùng cho nghi thức này là bột trà xanh matcha… Khách thể chính của nghi thức Trà đạo Nhật Bản, là thao tác pha trà của người pha, là thao tác uống trà của người uống. Cả người pha và người uống đều không quan tâm đến hương vị của trà, không quan tâm đến sản phẩm họ đang chế tác và tiếp nhận là gì, dù họ rất tôn trọng sản phẩm này. Thứ mà họ tập trung vào là các thao tác. Họ hòa mình vào các thao tác, hòa mình vào thiên nhiên mộc mạc đơn sơ do họ tạo ra, nhằm để tâm trí họ được tĩnh lặng... [7]. Điều đó cho thấy một căn trà thất với chất liệu đơn giản thô sơ, được đặt trong bầu không khí cô tịch, không có màu sắc rực rỡ, dụng cụ pha trà, bình trà hay chén trà, thậm chí là cả những động tác với cách thức chậm rãi mang tính nghi lễ[8] chỉ là phương tiện giúp người trong cuộc lắng bớt cái tâm vọng động của mình. Như tọa thiền là phương tiện giúp chúng ta an tâm. Nếu quên tâm mà chỉ chú trọng đến tướng ngồi lâu hay mau thì mình đánh mất tinh thần chính của việc tọa thiền, chỉ còn tướng tọa mà không có thiền. Trà đạo Châu Quang không khác. Nếu quên tinh thần lắng tâm mà chỉ chú trọng đến những hình tướng bên ngoài thì trà còn đó mà đạo đã bay, không còn là Trà đạo của Châu Quang.

Cho nên, mọi hình thức là cần thiết để trợ duyên tái tạo những giây phút bình yên, nhưng đó không phải là tất cả. Nếu dính mắc vào đó, tinh hoa của Trà đạo bị đánh cấp. Bởi theo tướng thì bỏ tâm. Rồi cũng lại so đo hối hả không dừng. Sự mộc mạc của cảnh không làm vơi được mức độ “ồn náo” của tâm. Nghi thức lễ tiết chậm rãi của mọi hành tác không giúp dừng được cái tâm vội vàng hối hả trôi theo dòng đời.      

Uống trà đi!    

 

   



[1] Đây là lấy theo lời giảng của Đại đức Đạo Tâm. Còn theo một số tài liệu khác như “http://xuatkhaulaodonghn.vn/y-nghia-dich-thuc-cua-tra-dao-trong-van-hoa-nhat-ban/” thì ghi: Việc uống trà đã có từ trước nhưng chỉ lưu truyền trong giới quý tộc. Thứ thiền sư Vĩnh Tây mang về là bột trà xanh. Nghĩa là Trà đạo đã có từ thời Thiền sư Vinh Tây. Đến thời Thiền sư Châu Quang mới chính thức hình thành trường phái uống trà nghiêng về tinh thần và sự giản dị, lưu truyền trong cả giới bình dân.

[2] Con gái tôi nghiện uống trà, nhưng qua Canada thì được bác sĩ nước đó khuyến cáo “không nên uống trà nữa vì nó đưa đến tình trạng thiếu máu và gầy rạc”.

[3] Thiền sư Quy Sơn: Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”.

[4] Thiền Đốn Ngộ, phần “Truyền gia bảo Thiền tông trực chỉ”, Thiền sư Thiên Cơ, HT.Thanh Từ chú dịch.

[5] http://www.slideshare.net/quyvuong00/cong-dung-cua-tra-ve-cach-uong-tra-khoa-hoc-hop-ly

[6] Kinh Trung bộ tập III

[7] Nguồn: Trích trong bài “Ý nghĩa đích thực của Trà đạo trong văn hóa Nhật Bản” - Văn hóa học (Đoàn Lưu Hùng Minh). http://nvbac.com/tra-thu/y-nghia-dich-thuc-cua-tra-dao-trong-van-hoa-nhat-ban/

[8] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A0_%C4%91%E1%BA%A1o

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác