Định nghiệp nhìn qua luật số lớn
dinh nghiep
Đặng Công Hanh
Viện sĩ Toán học
Liên Xô Kolmogorov, nhà toán học lớn
của thế giới đã có lần nói: "Giá trị
chấp nhận được của lý thuyết xác xuất là các định lý giới hạn". Phải kể
đến là Luật số lớn (loi des grands nombres), định lý Poisson và định lý Giới hạn
trung tâm (Théorème central).
Các kết luận của
lý thuyết xác xuất cũng như tất cả các ngành khoa học khác cần phải phù hợp với
thực hành. Chỉ trong trường hợp như thế mới có thể thừa nhận rằng các khái niệm
trừu tượng của khoa học phản ánh đúng đến các quy luật khách quan của thế giới
quanh ta. Trong các hiện tượng ngẫu nhiên đám đông, chúng ta quan sát không chỉ
tính vững của tần suất, của biến cố mà nói chung tính vững của các kết quả
trung bình.
Mặc dù các kết
quả của các hiện tượng ngẫu nhiên riêng biệt xảy ra như thế nào, đặc tính riêng
biệt của tiến trình của các hiện tượng ấy ra sao, chúng chỉ san bằng trong đám đông chung và kết quả trung bình của một số lớn các hiện tượng ngẫu nhiên thực tế không
phụ thuộc vào đặc tính riêng biệt của những hiện tượng ngẫu nhiên riêng lẻ.
Tất cả những sự
kiện như thế cần phải suy từ lý thuyết xác suất như là những kết luận có tính
chất lý thuyết và chỉ khi đó nó mới có thể là công cụ của nhận thức thế giới
quanh ta.
Tập hợp các định
lý toán học của lý thuyết xác suất chung quanh nội dung vừa nêu trên được thống
nhất dưới tên gọi là "Luật Số Lớn".
Semion Deni Poisson là nhà Vật lý - Cơ học - Toán học nổi tiếng người Pháp, Viện
sĩ Viện hàn lâm Khoa học Paris
đã chứng minh định lý nổi tiếng về Luật số lớn mà sau này mang tên luật Poisson.
Ông là người đầu tiên sử dụng thuật này.
Đối với lý thuyết
xác suất, Luật số lớn được rút ra từ thực tiễn và nó được kiểm chứng trực tiếp
bằng thực tiễn, và vì thế nó là cơ sở của các ứng dụng của lý thuyết xác suất.
· Bất đẳng
thức Chebyshev (Trêbưsep)
Cơ sở của Luật
số lớn là bất đẳng thức Chebyshev, bất đẳng thức này cho giới hạn trên của xác
suất, phát biểu như sau:
· Với
U là đại lượng ngẫu nhiên tùy ý thực sự dương
P(U ³ u) £ nếu P(U < 0)) = 0
(*)
Giả sử f(x) là
mật độ xác suất của U, kỳ vọng toán của U:
Từ đó ta có bất
đẳng thức (*).
· Bây
giờ giả sử đại lượng ngẫu nhiên X tùy ý và vì (X - mx)2
> 0 thỏa bất đẳng thức (*) và kỳ vọng của (X - mx)2 là
phương sai của X ký hiệu là Dx nên ta viết:
> 0
Áp dụng: Xét n
phép thử Becnulli độc lạp với xác suất thành công p. Gọi A là biến cố thành công.
Đặt XK =
|
1 nếu A xuất hiện ở lần k
0 nếu A không xuất hiện ở lần k
|
Và P(Xk = 1) = p
P(Xk = 0) = (1 - p) = q
n(A) là số lần biến cố A xuất hiện
n(A) = X1
+ X2 + X3 + ... + Xn
Áp dụng bất đẳng
thức Chebyshev, ta thu được:
®
Đó là Luật
số lớn Bernoulli - tức là tần suất hội tụ theo xác suất tới p.
Nói theo ngôn ngữ thông dụng, khi số lần thử đủ lớn thì tần suất xuất hiện của
A rất gần với xác suất thành công của A. Đây là Luật số lớn đơn giản nhất do Bernoulli
chứng minh công bố năm 1713, và về sau các nhà toán học mở rộng thêm.
* * *
Hòa thượng Thích Trí Quang có viết trong
Nhiếp Luận rằng: "Chữ pháp có
nghĩa là khái niệm. Cây bút là một pháp, mà cây bút dài hay ngắn, cũ hay mới,
trắng hay đen, tốt hay xấu cũng toàn là một pháp. Một ý tưởng là một pháp, mà ý
tưởng ấy thiện hay ác, đúng hay sai, lợi hay hại, thánh phàm cũng toàn là một
pháp.
Thế nên, pháp
bao gồm tất cả có không, tâm vật, nhiễm tịnh, thiện ác, thánh phàm.... Các pháp
ấy là những đối tượng được biết và luận này nói là ba tánh gồm y tha, biến kế và
viên thành. Đó là sắc thái các pháp sở tri nên "các thức" cũng có nghĩa là "các pháp" .
Có thể xem cụm
từ: "Khái niệm về cái gì hay ý tưởng
về cái gì" như là biến dạng của một cái mà Phật giáo gọi là "pháp". Thế cho nên hàm đặc trưng xây
dựng như dưới đây cũng là pháp. Nó có thể ví như một hiện sinh trong toán học:
XK =
|
1: nếu hạt giống ý niệm "thiện"
A xuất hiện lần thứ k, như là
biến cố.
0: nếu hạt giống ý niệm "thiện"
A không xuất hiện lần k, như là
biến cố
|
Có thể chăng đây
là một hư cấu có căn cứ quan hệ với chân lý toán học cho nên nó là một phương
tiện căn bản để thám kiểm thực tại của sự hiện hữu. Nói như Dharmakĩrti: "Cái gì thực hữu, cái đó có tác dụng; cái gì
có tác dụng, cái đó thực hữu". Nơi nào đó có tác dụng, nơi đó pháp
tính mới được nỗ lực quán chiếu để phát hiện.
¨
¨ ¨
Yếu tính tạo nên
đời sống con người là nhận thức và hành động. Mọi hành vi đều được phát động và
hướng dẫn bởi nhận thức.
Nhận thức hay
nhận biết cái gì sai biệt như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp thông qua các
căn thân, đồng thời được xử lý và tái cấu trúc trong quá trình nhận thức. Tỉ như
biết sắc do mắt, nó được gọi là thức của mắt. Thức con mắt không nhận biết được
đây là chiếc xe hơi nếu không có quá trình xử lý theo giai đoạn phân tích và
giai đoạn tái cấu trúc. Như vậy, Thức được nhận biết do bởi hoạt động của nó,
hay nói rằng kết quả hoạt động của nó được xác nhận. Một định nghĩa tổng quát
ghi lại, do ngài Thế Thân đưa ra thật rõ ràng: "Thức, là sự thông tri cá
biệt: Sự thông tri, sự nắm bắt từng đối tượng cá biệt, đó là thức uẩn"; cho nên ta có nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức...
Các nội dung trên
đây nói lên một xác định, tất cả tồn tại duy chỉ là thức hay chỉ là dữ liệu thông
tin của thức. Sự thông tin thể hiện bởi thể cách: chủ thể nắm bắt (năng thủ) và
khách thể được nắm bắt (sở thủ). Vì vậy cái thực tại ta biết không phải như thực
của nó, mà chỉ là cái ảnh tượng của nó. Thực tại không độc lập với ý thức hay nói
rằng chủ thể và khách thể qui định lẫn nhau.
Mối quan hệ bất
khả phân ly giữa chủ thể tri giác và đối tượng được gọi là Duy thức, tức là chỉ
có thức biểu biệt, chứ không phải là chỉ có tâm thức mà không có thế giới thực
tại khách quan.
Hàng ngày chúng
ta nhận thức, rồi phân biệt tất cả mọi hiện tượng, mọi sự vật, rồi cấu trúc thành
con người, thành cây, thành hoa, thành lá... sau đó lưu vào bộ nhớ và trở thành
tập khí tồn tại dưới dạng chủng tử hay hạt giống ý niệm. Bộ nhớ này chính là
kho chứa, Duy thức gọi tên là Tàng thức. Còn hành động tức là nghiệp cảm. Nghiệp
là hành động do tham sân si, ý muốn, khởi lên thúc đẩy. Tất cả những hành động
như vậy sẽ lưu lại thành tập khí hay chủng tử.
Có thể diễn dịch
thế này: dưới tác động cố ý nào đó mà thân
và khẩu phát khởi nên một hành vi. Khi hành vi được thực hiện và kết thúc, nguồn
năng lượng đó không biến mất theo các động tác đã thực hiện mà trái lại chúng được
tích lũy thành một dạng năng lực kết đọng thành hình thức chủng tử hay hạt giống
ý niệm.
Hạt giống này gặp
điều kiện thích hợp sẽ tăng trưởng và trở thành các hình thức tồn tại. Một thành
ngữ ta thường nghe truyền thông trong dân gian: "Năng đi đêm phải gặp
ma" là vậy. Hoặc hình ảnh vô số các hạt nước giàu Can-xi, rơi, kết tủa tại
một điểm sẽ tạo nên một hình tượng đẹp trong các hang động. Tất cả mọi hành vi
của nghiệp đều được hướng dẫn bởi nhận thức.
Từ đó mà thấy rằng
nghiệp là các hành vi thân và khẩu được phát động, thúc đẩy bởi ý với tính chất
là thiện hoặc bất thiện. Các hành vi thuộc thân, khẩu thuộc về sắc, cho nên khi
các động thái chấm dứt thì nghiệp được biểu hiện bởi các hành vi cũng mất theo,
nhưng còn năng lực điều khiển (tức là ý) được nhuốm màu thiện, bất thiện lại được
huân tập thành chủng tử vẫn lưu giữ trong kho chứa Tàng thức. Sự huân tập này để
sản sinh ra công năng của chính nó, gọi là tập khí. Sự huân tập chỉ có thể do bảy
chuyển thức gồm 5 thức giác cảm (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) cùng với ý thức, và
mạt na thức, thực hiện.
Tựa như dòng sông,
tùy theo địa phương mà con nước chảy qua, và tùy theo những thứ mà con nước
mang theo có khác nhau. Cũng vậy, tùy theo các kết quả hiện hành của hoạt động
tạo nghiệp của chúng ta, dù nghiệp thiện hay bất thiện nó đều tồn tại dưới cái
năng lực của chủng tử, sẽ đưa đến kết quả khác nhau.
Kết quả đó là dị
thực, dị thực là kết quả của nghiệp chín muồi. Chúng ta xuất hiện trong trần
gian cũng là một dị thục, khi dị thục cũ đã chìm xuống (người vừa chết) thì dị
thục mới được khởi lên. Trong dị thục này luôn luôn tồn tại hai nghiệp di truyền:
một là di truyền của cha mẹ tức là di truyền dòng giống, và một là di truyền của
nghiệp. Đó chính là sự thừa tự, là kế thừa cha, kế thừa mẹ và hành vi của chính
mình trong quá khứ hay quả dị thục, Vì thế, nên kinh Phật có nói rằng, chúng
sinh là kẻ thừa tự nghiệp, tức là thừa tự những gì mình đã làm.
Bây giờ mình đang
thọ thân, hiển nhiên có những vui, những buồn, những cái định nghiệp không thoát được và cũng biết được các hành xử trong hiện
tại sẽ đưa đến nghiệp quả trong tương lai.
Thi sĩ Hoàng Cầm
có viết:
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
Hẳn trong thâm
tâm nhà thơ phải có hạt giống buồn (biệt nghiệp) nên ông xúc cảm được cái cô tịch
của âm thanh tiếng võng đưa cùng lời ru buồn của bà. Trong âm hưởng đó còn lắng
sâu cái bối cảnh giặc giã, bối cảnh sống nghèo đói hàng bao nhiêu năm của nòi
giống (cộng nghiệp).
Cùng với cách
nhìn như vậy, ta có thể thấy sâu được tâm trạng người lữ khách, trên bước đường
phiêu bạt trong một chiều cô độc đang mang nặng nỗi sầu lưu truyền từ nhiều kiếp
cả riêng lẫn chung.
Chiều chiều mây phủ Ải Vân
Chim kêu gành đá ngẫm thân thêm buồn
(Ca dao)
Có thể nói rằng
Tàng thức là tâm điểm của triết học Duy thức, nó bao hàm cả nội dung của Thực tại
luận và Giải thoát luận. Tàng thức được định nghĩa là kho tàng, chứa đựng tất cả
những hạt giống ý niệm (chủng tử) hay là nguyên nhân phát sinh của thực tại giả lập.
Như vậy, nó là
nền tảng linh động có khả năng dung chứa các chủng tử, tức các hạt giống tâm thức.
Nó được ví như đất tâm để phát triển.
Vì thế Tàng thức được xem như là tự tướng hay thể của tâm. Nó có 3 tính chất: một
là dung chứa gọi là năng tàng; hai là đối tượng được dung chứa (sở tàng); ba là
bị chấp, là ngã tính vĩnh hằng: cái tôi, cái của tôi, cái tự ngã của tôi...
Như thế, tâm được
nhận thức luôn luôn bao gồm hai phần: chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận
thức. Thông thường mọi hiện tượng diễn biến trong thế giới thực tại khách quan
cũng như trong tâm thức, luôn luôn được sinh khởi từ các hạt giống (ý niệm) tiềm
tàng trong tâm thức. Chẳng hạn trong tâm thức có đầy đủ các hạt giống thiện và
bất thiện, khi gặp thuận duyên hay điều kiện thích hợp thì nó hiện hành; tỉ như
hạt giống sân hận chìm sâu nhưng nếu gặp ai mắng chửi, thóa mạ... thì nó sẽ biến
hiện bằng hành vi. Đó là các hạt giống tâm thức như ảnh tượng của sóng - nước
luôn luôn tồn tại trong dòng nước, khi chìm khi nổi diễn ra liên tục. Nhìn như
vậy, để thấy nó là một tiến trình, mà kinh Phật gọi là "hằng chuyển như bộc
lưu", chứ không phải là một thực thể. Trong tiến trình đó, nó bị ý thức mạt-na
lầm chấp gán cho nó một bản ngã thực hữu và từ đó mà giả lập nên chủ thể và khách
thể.
Hãy nghe hai
bài tụng Duy Biểu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
1. Tâm là đất gieo hạt
Mọi hạt giống chứa đầy
Tâm địa cũng chính là
Toàn thể hạt giống ấy.
2. Hạt giống có đủ loại
Sinh tử và Niết-bàn
Mê
ngộ và khổ vui
Danh xưng và tướng trạng.
(Trích 50 bài tụng
Duy Biểu)
Con người, theo
Phật giáo, trước hết là biểu hiện từ Tàng thức, bao gồm đầy đủ các nhân duyên và
xuất hiện như một tổng thể bất khả phân của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức) và bản chất là một sự tích hợp của nhân duyên cộng với dòng nghiệp thức.
Như đã nói, nghiệp chính là tư duy và hành động của mỗi con người gồm nghiệp
thiện, bất thiện và vô ký. Nó như một thứ trái khoán được vay mượn, và một ngày
nào đó phải được trả lại cho trái chủ, tức con người chính nó. Như thế, sự hiểu
biết, nhận thức đúng đắn về Nghiệp, sẽ giúp ta thoát khỏi sự mê hoặc của quyền
năng tạo hóa chi phối sinh mệnh của mình. Và từ đó chọn lựa một hướng đi, đó là
hướng nỗ lực "thay đổi trọn vẹn toàn
bộ cơ cấu tâm thức", thoát ly sự đắm chìm trong cơn khát vọng trần thế
đang thiêu đốt. Đây là một sự thách đố vĩ đại của con người trước viễn cảnh của
Chân như và Tục lụy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/
Tuệ Sỹ: - Thành Duy Thức (Dịch và chú)
NXB
Phương Đông - 2009
- Văn
tuyển - Tập I: Phật học
NXB
Hồng Đức - 2015.
2/
Pugatrep: Hàm ngẫu nhiên (dịch giả Huỳnh Sum)
NXB
Đại học và trung học chuyên nghiệp 1978.