Viên Lâm thiền của hệ phái Yên Tử và ý nghĩa cảnh xuân
vien lam
VIÊN LÂM THIỀN CỦA
HỆ PHÁI YÊN TỬ VÀ Ý NGHĨA CẢNH XUÂN
VÕ PHƯỚC LỘC
Yên Tử là phái tu thiền đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Tìm
hiểu đặc điểm tư tưởng, nhiều
nhà nghiên cứu đã thống nhất cho hệ phái này chủ trương: hộ quốc an dân và sống đời vui đạo,
tùy duyên. Hai nội dung được trình bày rõ ràng, trong ngữ lục và thi kệ của các đại sư thuộc hệ phái. Tuy
nhiên, khảo sát bộ phận thơ viết về thiên nhiên, chúng ta thấy các thiền sư rất
quan tâm việc thưởng lãm vườn cảnh (viên lâm). Họ xem đấy là môi trường thể
nghiệm ngộ đạo. Từ đó, nhà Thiền có được trải
nghiệm hợp nhất giữa thiền sinh học, thiền tôn giáo và thiền học nghệ
thuật (vườn cảnh, thi ca, hội họa, trà đạo). Nó minh định rõ quan niệm luôn muốn tạo dựng
hoàn cảnh sống yên vui, phúc lợi xã hội (an lạc đồng chúng sinh) của Thiền học Yên Tử.
Mảnh đất thường lành gieo hạt giống từ tâm về một nẻo sơ chung (Nguyễn Trãi) của muôn loài; cùng tận thiện dâng hiến
cho nhau bình yên sự sống. Cũng là cội nguồn: Đạo lý đương nhiên lộ cộng
hành, có ý nghĩa nhân văn và phổ quát.
1.Những cứ liệu từ thơ ca và lịch
sử hệ phái Yên Tử
Vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II (trước TL), tư tưởng hòa hợp chúng sinh của Phật Thiền, luôn quyện
trong lối sống yêu chuộng và tôn trọng tự nhiên của dân ta. Người Việt sớm đúc
kết thành nguyên lý muôn loài đồng sinh trưởng, cho nhau sự sáng suốt an lạc. Theo đó mà thừa
Thích hóa Nho, chuyển Đạo.
Xét về mặt truyền tâm (pháp thống Phật tích) trong nhân
dân, căn cứ vào Cổ Châu Pháp Vân Phật bản
hạnh ngữ lục (khoảng 1322) và Pháp
Vân cổ tự bi ký của Lý Tử Tấn (1378-1460) chép: Khoảng 189 (sau TL) Thiền sư Khâu
Đà La và Man Nương sinh Phật Pháp Vân được thân cây nuôi dưỡng. Về sau, hóa thân thành
tứ Phật: Vân, Vũ, Lôi, Điện; Phật Pháp Vân là gốc được thờ ở chùa Thiền Định
(chùa Dâu, làng Thuận Thành, Bắc Ninh); Phật Pháp Vũ thờ ở chùa Thành Đạo (chùa
Đậu, thôn Phúc, Thường Tín, Hà Tây). Man Nương được dân ta tôn là Phật mẫu.
Trong môi trường sinh thái tinh thần của người Việt, tâm ấn Phật Pháp Vân được
truyền cho nhau qua câu tục ngữ: Nguời ta
là hoa đất; mẹ ta hoa Phật. Thời đại Lý-Trần (939-1427) Thiền tông được vua
quan, dân chúng tin theo. Dân ta lại cụ thể hoá thành quan niệm: Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt. Điều đáng lưu ý là, thời này,
dòng Thiền Pháp Vân có chi nhánh ở núi Đại Lãm (xã Nam Sơn, huyện Quế Dương, lộ Bắc
Giang), chuyên tọa thiền ở trà thất trong vườn. Do vậy, họ cũng sành kiến tạo vườn cảnh. Chi phái
này có nhiều đệ tử tu ở nhà, sơn trang riêng biệt. Tổ đình Thần Quang trên núi
nổi tiếng cảnh vườn nguy nga, san sát đài tạ. Từ năm 1295-1299, vua Trần Nhân
Tông từ động Vũ Lâm (Ninh Hải, Hoa Lư, Ninh Bình) hay qua lại đây để tham thiền; như trong bài
thơ Đại Lãm Thần Quang Tự viết: Ngoài việc thắp hương tham thiền ra; mọi việc
suy nghĩ đều cho qua đi hết. Từ bài thơ trên của Phật hoàng, so sánh đối
chiếu với hai tư liệu
khác, ta tìm được các đời
truyền đăng của chi phái Viên Lâm Thiền. Căn cứ trên hai mối quan hệ: giữa Phạm Nhân
Khanh với Đại Lãm quốc sư và Huyền Quang (1254-1334) Tam Tổ Yên Tử; giữa họ
Phạm và cha con Nguyễn Trãi (1380-1442) với Thiền sư Đạo Khiêm núi Chí Linh.
Phạm Nhân Khanh hiệu là Cổ Sơn, đỗ tiến sĩ năm 1374, sinh
độ 1315, người làng Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, lộ Quốc Oai. Nhà ở chân núi Cổ
Sài Sơn, gần chùa Phật Tích thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Thời Trần Minh Tông
(1300-1357), có lúc ông được dùng làm tín sứ, giữ việc liên lạc giữa triều đình
và lãnh đạo giáo hội Yên Tử. Theo lời tự thuật trong thơ Tiễn Quốc sư Lãm Sơn về núi (Tống
Lãm Sơn Quốc sư hoàn sơn), ông được sư ngầm truyền tâm ấn Pháp Vũ của Viên Lâm Thiền
tại vườn nhà. Nhân đó, ông viết sách Tiểu
Phố để dạy nghệ thuật vườn cảnh cho lớp trẻ. Nguyễn Phi Khanh có vịnh bạt qua
bài: Ông Phạm Cổ Sơn đưa bài thơ vịnh “vườn
nhỏ”, lại nói các vị đều họa cả rồi; tôi hâm mộ ở trong cõi trần này mà có cái
thú nhàn tản như thế, nhân theo vần họa lại một bài (Cổ Sơn Phạm Công thị dĩ “Tiểu Phố” thi, thả đạo chư công tận dĩ canh họa;
dư nhân mộ kỷ trần trung nhi hữu nhàn thích chi thú, y vận phú nhất luật).
Trong thơ, Nguyễn
Phi Khanh có ý nguyện cùng qua lại với Cổ Sơn mà thảo luận ngâm vịnh. Về sau, Nguyễn
Trãi theo di nguyện của cha, phát triển đề tài vịnh vườn cảnh với thiền thú ở
vườn Côn Sơn. Viết Đưa sư Đạo Khiêm về
núi, Ức Trai cũng hé lộ: “gặp nhau, mừng hết
tục, nói chuyện tiền duyên... Từ biệt nhau, rồi ta cũng theo thiền thượng thừa”.
Nguyễn cũng đã có 10 năm nghe Đạo Khiêm giảng Viên Lâm Thiền, lúc ở vườn
Thanh Hư của ông ngoại là Trần Nguyên Đán (1325-1390). Do vậy, Phạm Nhân Khanh,
Đạo Khiêm và Nguyễn Trãi theo hệ phái Yên Tử là điều chắc chắn. Tổng kết các cứ
liệu trên, ta có
thể xác lập hệ truyền đăng Viên Lâm Thiền đến đầu thời hậu Lê (1450) như sau:
1.Pháp Vân-Pháp Vũ (khoảng 189) 2. Từ Đạo Hạnh (?-1117)-Không Lộ
(?-1119) 3. Trần Nhân Tông
(1258-1308) 4. Huyền Quang
(1254-1334) 5. Lãm Sơn Quốc sư (?) 6.
Phạm Nhân Khanh (sinh khoảng 1315) 7.
Đạo Khiêm (?)
8. Nguyễn Trãi (1380-1442)...
Thiền tông vào ta, truyền pháp theo Thiền Uyển tập anh gồm có dòng Pháp Vân (580) và Kiến Sơ (khoảng
759). Về mặt tư tưởng cả hai
đều chịu sự chi phối bởi cơ chế bản địa hóa Phật giáo trên nền tảng văn minh
nông nghiệp, văn hóa phồn thực của tộc Việt. Mặt khác, Đại Việt sử kí toàn thư chép: Năm 968, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi, định đô ở động Hoa
Lư, xây cung điện vườn cảnh, đình chùa san sát liền núi sông. Thời Lý-Trần Thiền
tông và nghệ thuật vườn chùa nở rộ
khắp nơi. Từ đó, dân ta quen gọi chung các loại vườn cảnh là động, như Nguyễn Phi
Khanh nói trong Thanh Hư động ký. Xuất
gia ở động Vũ Lâm, gần động Hoa Lư hẳn Trần Nhân Tông có ý tứ. Như vậy, chúng ta gọi phép
thiền định trong vườn cảnh là Viên Lâm Thiền, không phải là không có căn cứ lịch sử và cơ sở khoa
học, trong
việc luận chứng quan điểm cộng sinh an lạc
của phái Yên Tử.
2. Đặc điểm Viên Lâm Thiền của phái Yên Tử
Viết bài thơ Tiễn
Quốc sư Lãm Sơn về núi, Phạm Nhân Khanh nêu ngắn gọn và rõ ràng ba nội dung
cơ bản, của
quan niệm an lạc đồng chúng sinh:
出山幾日更還山,
Xuất san kỷ nhật cánh hoàn san,
為愛山居意自閑.
Vị ái san cư ý tự nhàn.
松院渚茶香漠漠,
Tùng viện chử trà hương mạc mạc,
鶴泉洗鉢水潺潺.
Hạc truyền tẩy bát thủy sàn sàn.
放開禪價真千古,
Phóng khai thiền giá chân thiên cổ,
發露詩名正一般.
Phát lộ thi danh chính nhất ban.
歸向嶺雲深處卧,
Quy hướng lĩnh vân thâm xứ ngọa,
暗施法雨洗人間.
Ám thi pháp vũ tẩy nhân gian.
Dịch
xuôi:
Mới xuống núi mấy ngày, lại trở về núi,
Vì thích ở trong núi, ý thái tự do thảnh
thơi.
Pha trà trong viện thông, hương thơm ngào ngạt,
Rửa bát ngoài suối hạc, nước đầy chứa chan.
Mở toang thiền giá, ngàn thuở chân như,
Phát lộ lời thơ, một niềm chính quả.
Trở về nằm nơi mây núi sâu thẳm,
Ngầm đưa “Pháp Vũ” rửa cõi trần gian.
Thơ văn Lý-Trần, tập 3.
2.1.Tọa thiền trong
vườn cảnh ở núi, cùng
thực hành trà đạo là điều kiện lý tưởng để rèn luyện sinh thể được khỏe mạnh,
tinh thần luôn sảng khoái. Nhịp sống trong lành thanh khiết của tự nhiên, phối hợp với lợi
ích của uống trà giúp con người dễ thanh lọc tâm hồn; kích hoạt ý thức sáng tạo
cá nhân, vượt qua ngưỡng tâm lý cảm thấy sống hiu quạnh giữa núi rừng. Bởi lẽ
người điều tiết nhịp thở, hòa hợp
với sinh khí của tự nhiên là bước cơ bản của thiền sinh học.
Khách quan mà nói, Nho, Đạo gia, kể cả người nông dân đều
chuộng dùng trà. Song với nhà Thiền, trà đạo không phải là thú tiêu khiển, hưởng lạc
thanh cao; không là nương theo tự nhiên (dụng trà, hoa, rượu luyện đan) mà “đoạt
quyền tạo hóa” để “trường sinh bất lão”. Viên Lâm Thiền xem nó là phương tiện để
thực hiện sự hợp nhất của đạo (chung một nhịp sống vạn hữu, tương hòa ứng
thuận với tự nhiên). Về sau, Nguyễn Trãi trình bày vấn đề này, hết sức tế nhị
qua thơ. Khảo sát 353 bài thơ chữ Hán và Nôm, ta thấy ông lặp lại 14 lần dụng trà thưởng cảnh.
Trong 76 bài thơ của cha ông là Nguyễn Phi Khanh, tuyệt không nói đến thưởng
trà mà luôn chuốc rượu, trong mọi
cảnh ngộ (15 lần). Ngược lại, trong mảng thơ Nôm viết về đề tài vườn cảnh ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi
cũng không nói đến uống trà. So sánh nội dung và hoàn cảnh sáng tác qua hai bài
thơ có cảm hứng viên lâm của ông, ta hiểu chỗ ẩn ý ấy:
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã,
Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền.
Dịch:
Suối hẹn
Côn Sơn hẳn phen nao?
Lẩm cẩm
già rồi đừng la tớ,
Chia đường
tớ cũng sẽ theo thiền.
Đưa sư Đạo Khiêm về núi
Cung dư tịch địa bán trăn kinh...
Tiếu ngã lão lai cuồng cánh thậm,
Bàng nhân hưu quái Thái công tinh.
Dịch:
Hơn cung
đất hẹp nửa đầy gai...
Cười tớ
về già cuồng lại quá,
Thứ công
tỉnh đấy, xóm giềng coi.
Mừng nhà mới Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc Pha
Mừng vườn nhà mới của Nguyễn Mộng Tuân (tự Cúc Pha), Ức
Trai lặp lại ý thơ Nguyễn Phi Khanh họa sách Tiểu Phố của Phạm Nhân Khanh: “Khoảng đất vườn nhỏ có thể dung thân được”. Nguyễn có ý nói
cũng như cha mình, Cúc Pha quy thú điền viên để được nhàn tình. Tiễn Đạo Khiêm
ông kín đáo nhắc đến tứ thơ ngầm trao tâm ấn Pháp Vũ, trong bài thơ Tiễn Lãm Sơn Quốc sư về núi của họ Phạm.
Dùng lối nói nghịch đảo khi tiếp nhận ấn tâm Viên Lâm Thiền: Suối hẹn Côn Sơn hẳn
phen nao; Nguyễn Trãi xác nhận cái nhìn của nhà Thiền tạo vườn, sửa
cây cảnh là đồng hoạt nghiệp thuần nhất với tự nhiên (cùng sinh-trưởng-diệt).
Nó là sự thống nhất giữa thiền lạc với sự sống thơ. Có nhân duyên với nghệ thuật
vườn cảnh; song trước sau Nguyễn Phi Khanh vẫn chưa ngộ tâm ấn Viên Lâm Thiền
như Nguyễn Trãi và Phạm Nhân Khanh.
2.2. Nói “Phóng
khai thiền giá chân thiên cổ”, Phạm Nhân Khanh nhằm khẳng định Viên Lâm Thiền không mưu cầu
lưu danh ngàn năm (Nho), sống lâu muôn tuổi (Đạo). Với nhà Thiền, sự sống
luôn chuyển động là sự thật ngàn đời vốn vậy. Để cắt nghĩa rõ điều đó, không gì
bằng quan sát mọi thể hiện sinh trưởng (không lời) của cỏ cây, hoa lá trước mắt,
trong nhà vườn. Vua Trần Nhân Tông, qua tọa thiền trên núi Đại Lãm đã đúc kết
nguyên tắc trải nghiệm:
Thập nhị lâu đài khai họa trục,
Tam thiên thế giới nhập thi mâu.
Dịch:
Lâu đài
chín cõi bày tranh vẽ,
Thế giới
ba ngàn lọt mắt thơ.
Chùa Thần Quang trên núi Đại Lãm
Con người xây dựng nhà cửa, nuôi trồng cỏ cây theo quy luật
của tự nhiên (khai họa trục, mở bản vẽ đồ họa). Nó có ý nghĩa tái cấu trúc lại
không gian sinh tồn, sáng tạo một tự nhiên thứ hai phù hợp với cõi lòng và tập
quán sinh sống (viên lâm nội, bên
trong vườn cảnh). Từ trải nghiệm sống đó mà hiểu được cái đa thù, đa dạng của mọi
cảnh sống đời, mọi thể hiện của tự nhiên (viên
lâm ngoại, ngoài vườn cảnh). Và, như thế là nắm bắt được toàn bộ nhịp sống
thế gian; chứng ngộ được sự thực hiện bản thể không tính; hiểu thế giới đồng nhất
trong nhịp sống thực tại. Bởi lẽ vũ trụ rỗng lặng hàm chứa hạt giống chuyển
sinh; khi có điều kiện nhân duyên, lập tức tính không sẽ sinh thành vạn hữu (nhập thi mâu, thu vào mắt nhịp sống nên
thơ).
Khảo sát thơ ca giữa Trần đến đầu Lê (1320-1450) thấy có
Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) và Nguyễn Trãi phát triển tứ thơ trên của Phật hoàng; xem đó như
nội điển Viên Lâm Thiền của phái Yên Tử:
Nhất thốc lâu đài tàng thế giới,
Tứ thời hoa điểu ngoại nhân gian.
Dịch:
Một cõi
lâu đài gồm thế giới,
Bốn mùa
hoa điểu mở nhân gian.
Nguyễn
Trung Ngạn, Chùa Long Động núi Yên Tử
Thập trượng lâu đài tiêu thẫn khí;
Tam canh cổ dốc tráng quân dung.
Dịch:
Mười trượng lâu
đài tan nhiễm khí,
Ba canh còi trống
mạnh quân dung.
Nguyễn Trãi, Làm trong thuyền hộ giá tiết Thượng Nguyên
Nhìn về dãy Chí Linh bên bờ, phủ bóng Yên Tử sơn phát
tích, Nguyễn Trãi phát triển tứ thơ thật sảng khoái tâm hồn.
Các tôn giáo đều có phép rèn luyện tĩnh tâm, làm cho con
người khỏe mạnh, sáng suốt. Phát biểu điều gặp gỡ đó, hệ phái Yên Tử qua Viên
Lâm Thiền, đã chứng minh “hoạt nghiệp của
tính không” (theo Thiền Phật giáo) cũng có ý nghĩa phổ quát trong trải nghiệm
tâm linh con người.
2.3. Nêu: “Phát lộ
lời thơ, một niềm chính quả”, Phạm Nhân Khanh khẳng định thành tựu Viên Lâm
Thiền là chính quả hợp nhất: thiền sinh học, thiền tôn giáo và thiền học nghệ thuật. Mặt sinh học và tôn giáo, chúng
ta đã luận giải như trên. Riêng tác giả bài thơ đề cập đến thi ca là để chỉ rõ
sự soi chiếu giữa vô tự thiền và hữu tự thiền. Nhà thiền xem làm thơ
cũng là tham thiền. Qua dùng lời để tiêu lời, người làm thơ thiền thể nhập ngôn
hành sự sống chúng sinh. Họ cho
mọi thể hiện của sinh
cảnh là lời giao cảm không dùng chữ viết (vô
tự thiên thư). Thống hợp 3 yếu tố nêu trên, Viên Lâm thiền xem ngộ đạo là đồng
trải nghiệm nhịp sống muôn loài. Để đạt đạo lý đó, trước tiên Trần Thánh Tông
(1240-1290) thiết lập sự tương ứng giữa câu không (vô cú) và câu có (hữu cú), nhằm đọc văn bản
vườn cảnh thiên nhiên:
Bách bộ sinh ca cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc quất nhô đầu.
Dịch:
Trăm tiếng đàn ca: chim sánh giọng,
Nghìn hàng tôi tớ: quất nhô đầu.
Chơi hành cung Thiên Trường
Thánh Tông xem mỗi hàng quýt, mỗi lời chim hót là một
đơn vị cú pháp có giá trị tạo nghĩa như: trăm
tiếng đàn ca; nghìn hàng tôi tớ. Dẫn dắt tiếp nối, Trần Nhân Tông tổng kết
thành nguyên tắc khai họa trục nhập thi,
bởi sự soi chiếu giữa câu có, câu không (thi kệ Hữu cú vô cú).
Nhìn từ phía lý luận nghệ thuật thơ ca (thi học cổ điển,
thi học Thiền tông), có thể hiểu từ lời thơ liên tưởng tới sự vật thể hiện trước
mắt; nhờ đó mà
toàn bộ thế giới, tinh thần đời sống hiện lên trong tâm trí ta. Nó làm tâm hồn người thưởng thức
thấy vui sướng, lập tức mọi câu chữ, hình ảnh tưởng tượng đều tan biến. Viên
Lâm Thiền cho đó là ngang qua tính không
mà thể nhập ngôn hành sự sống. Thấy
nhạn bay thành hàng, Phạm Nhân Khanh hiểu ấy là chữ nhạn (bài
Nhạn tự). Nguyễn Trãi phát triển thành toàn văn bản sách tự nhiên (Trận nhạn, Trận bướm; hoa truyền tin).
Nói theo Tuệ Trung thượng sĩ
(1230-1291), mọi văn
bản như vậy đều có ý nghĩa: thời tiết an định, đất nước hưng vượng, con người
sáng suốt (mê hương quốc, quốc mạch hân
nhiên).
Nhà Nho quan niệm: bốn mùa xoay chuyển, vạn vật sinh sôi
(tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên).
Còn cái nhìn thiền cảnh
xác tín tinh thần lặng hành của vạn hữu, luôn chan chứa ý xuân. Vạn vật tịnh
hành là lưu chuyển tình xuân, tạo tác sinh thành của vũ trụ. Nó biểu thị sự
giao tình giữa người với người, vạn vật. Bởi vậy, viết sách Tiểu Phố, Phạm Cổ Sơn luôn tiếc cảnh
chơi xuân (bài Thủ tuế, Xuân du). Ở mỗi
thời vụ tuy có tên riêng (xuân, hạ, thu, đông); song do người đời ép dùng chữ đặt tên (cưỡng tự
lập danh, Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của Nguyễn Công Bật). Sự thật
là lẽ lặng hành giao cảm (tịnh hành tinh
tấn) của muôn loài luôn chuyển sinh xuân thời, bởi mùa nào cũng có vạn vật
sinh trưởng. Về sau, trong mảng thơ viết về vườn cảnh Côn Sơn, Nguyễn Trãi phát
triển thành đề tài tiếc cảnh.
Với cơ sở
như trên, Phạm
Nhân Khanh xác định điểm nhìn nghệ thuật Viên Lâm:
路入芳園十里紅. Lộ nhập phương viên thập
lý hồng.
身在鶯花庭院裡, Thân tại oanh hoa đình viện
lý,
眼迷錦繡畫圖中. Nhãn mê cẩm tú họa đồ
trung.
Hoàng Lê
dịch:
Mười dặm
vườn thơm, sắc đỏ hoe.
Người giữa
sân hoa đầy cảnh đẹp,
Mắt say
gấm vóc thắm tranh quê.
Xuân
du
Cùng thời với ông, Trần Đình Thâm mở ra trường nhìn thiền cảnh và xác
định ý nghĩa của nó, qua bài
thơ Ngày xuân chơi chùa trên núi:
杖藜扶我入禪關, Trượng lê phù ngã nhập thiền
quan,
花草迎人取次攀. Hoa thảo nghênh nhân thủ thứ
phan.
院靜山明窗似畫, Viện tĩnh sơn minh song tự họa,
一庭芳草佛家閑. Nhất
đình phương thảo Phật gia nhàn.
Trần Lê
Sáng dịch:
Gậy lê đỡ
lão nhập thiền quan,
Hoa cỏ
đón người vin bước lên.
Viện vắng
ngoài song non tựa vẽ,
Một sân
hương cỏ Phật gia nhàn.
Tổng kết các nguyên tắc nghệ thuật đã nêu, Huyền Quang
cho thơ nói về thiền cảnh
Viên Lâm là: Thơ không thi liệu, xuân không chủ (春無主惜詩無料, xuân vô chủ tích thi vô liệu, Họa bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh).
Chính chỗ Viên Lâm Thiền coi trọng thể nhập ngôn hành sự
sống, Trần Thái Tông (1218-1277) mới phê phán thi Phật, họa sư Vương Duy
(701-761), thơ thiền chạy
theo màu sắc, thần thái hội họa mà “lãng
đắc danh” (Niêm tụng kệ). Tổng kết
mối quan hệ giữa nghệ thuật vườn cảnh, trà đạo và thi ca, Nguyễn Trãi cũng giống
như Tăng Kỷ (Tống, 1084-1166): Đun nõn trà tỉnh ngủ, đốt
hương ngẫm tập thi... nhàn vô dụng tâm xứ, tham thi như tham thiền (Trà Sơn tập). Song, ông không tán thành
kiểu học sĩ qui thiền để làm thơ hay chữ, ngộ bút đắc tiên như Tô Thức
(1037-1101). Đó là ngã rẽ đáng lưu ý của Viên Lâm Thiền Yên Tử, so với Nông thiền
và Sĩ đại phu thiền Đường-Tống-Minh ở Trung Quốc.
3.Ý nghĩa xã hội của Viên Lâm Thiền
Yên Tử
Viên Lâm Thiền Yên Tử ra đời là do đòi hỏi khách quan của
thời đại. Giữa triều Trần, nhà nước Đại Việt cần đổi mới sách lược ích nước lợi
nhà, để phát
triển bền vững. Về mặt đạo học, tầng lớp Nho sĩ quan phương ngày càng công kích
Phật giáo; triều đình và giáo hội thấy cần củng cố nền tảng thừa Thích hóa Nho để chuẩn bị cho
bước chuyển thành Thiền trong Nho.
Sử liệu từ Toàn thư cho thấy
thời Lý (1010-1225) nạn mất mùa đói kém, dịch bệnh ít xảy ra so với thời Trần
(1225-1400). Trong hai thế kỷ hoàn chỉnh hệ thống đê ngăn lũ ở đồng bằng, triều
Lý gặt hái thành công lớn. Đến Trần, các mặt tác động tiêu cực đến điều kiện
sinh thái mới bộc lộ rõ. Lên núi Đại Lãm, nơi “16 xã chia ở quanh núi, cảnh trí sông núi rất âm u tịch mịch”
[2,121] hẳn Phật Hoàng chiêm nghiệm lại vấn đề sinh thái nhân văn, để tìm đáp
án mới cho dân sinh. Tổng kết và phát triển Viên Lâm Thiền, một mặt cổ xúy cho
kinh tế vườn, cải thiện giống vật nuôi cây trồng, mở mang trang trại; mặt khác
là để nâng cao nhận thức môi sinh, phổ cập rèn luyện tinh thần khỏe mạnh cho
chúng dân. Thực chất cho thấy, từ thời vua Trần Thánh Tông trở đi, Viên Lâm Thiền
có tác dụng lớn đối với đời sống xã hội. Giới quý tộc, quan lại, Tăng lữ và dân
chúng luôn mở rộng điền trang, lập vườn chùa, vườn nhà và vườn thuốc. Sĩ đại
phu cũng chuộng tọa thiền ở thôn trang; thi nhau lấy bút hiệu gắn bó với Viên
Lâm Thiền: Hủ Phố, Lâu Phố (Trần Đình
Thâm); Thoái Viên (Tạ Thiên Huân); Thủy Hiên (Bùi Tông Hoan); Giới
Hiên (Nguyễn Trung Ngạn); Tùng Hiên
(Nguyễn Tử Thành); Mai Hiên (Lê
Liêm); Mặc Hiên (Phan Phu Tiên).
Trong chữ Hán phố (圃) là vườn; hiên (軒) là cửa
sổ thư phòng nhìn ra vườn.
Sau chiến thắng Nguyên-Mông lần thứ 3 (1287), Tống Nho và
Tân Pháp của Vương An Thạch, có điều kiện thâm nhập vào tư tưởng lớp trí thức được
đào tạo ở nhà trường Nho giáo chính thống. Thái độ của họ đối với Phật Thiền có
phần khác với giới Nho học từ trường ở nhà chùa. Họ phê phán gay gắt tệ sùng
tín hình thức, gây hao tổn tiền của dân chúng. Nho thần biếm nhẽ thói xa hoa trụy
lạc của giới quan lại núp bóng triều đình Phật giáo; phần nào động đến chỗ rất
mực tế nhị của họ Trần, do bảo thủ vương quyền bắt buộc hôn nhân trực hệ. Đòn
chí hiểm mà cũng là công án cực khó đối với vị vua sớm đạt đỉnh cao đế quyền, thần quyền,
thế quyền như Trần Nhân Tông. Trải nghiệm thực chứng Viên Lâm Thiền, Phật Hoàng
đã hóa giải rốt ráo vấn đề: lấy chỗ trân trọng quy luật tự nhiên mà chế ngự lòng
dục, tu hành làm ích nước lợi nhà; đưa vị thiền trong Nho thấm sâu vào lòng người
trí thức chân chính.
Việc 3 vua Nhân Tông, Anh Tông
(1276-1320), Minh Tông chọn 3 bậc đại
khoa, định trao trọng trách trong giáo hội Yên Tử là minh chứng khách quan cho
vấn đề đã nêu. Chúng ta biết Huyền Quang (20 tuổi đỗ tiến sĩ), tự nguyện theo
Phật Hoàng đi tu. Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi đỗ tiến sĩ), cự tuyệt lời gợi ý tu
hành của vua Anh Tông. Song, qua thơ ông liễu ngộ thiền lý Viên Lâm (thơ Đăng Bàn Bà thắng cảnh tự, Yên Tử sơn Long Động
tự, Tức sự, Xuân dạ dã tự...). Ông cũng là người có thái độ phê phán chua
cay địa vị Nho thần: Nổi trôi bồng bềnh
khách. Tình vua khuyển mã thân (Dạ tọa).
Riêng Phạm Nhân Khanh là chọn lựa đặc biệt, lại đỗ đạt muộn. Thơ Hỗ bái sơn lăng hồi kinh ông xưng là “Tiểu
thần tiến sĩ tân khoa dâng bài phú Cam Tuyền; chống gậy tiên mà đỡ vóc xuân
(vua) vào chín trùng”. Mượn điển Dương Hùng (53-18
sau TL) ra làm quan trên 40 tuổi; về già tự phê bài phú Cam Tuyền mình làm: “Chạm khắc con trùng, con triện của trẻ con”, thì sự lý đã rõ. Dựa vào hiệu Cổ Sơn và theo bài Ao sen chùa Phật Tích, Phạm bên ao luôn tháng ngày thoải mái; đối
chiếu với Lịch triều hiến chương loại chí,
Phan Huy Chú (1782-1840) chép: “Chùa Phật
Tích ở xã Thụy Khuê, huyện Yên Sơn có tên nữa là Sài Sơn, lại gọi là Cổ Sài, cảnh
núi rất đẹp. Chân núi có hồ, trên núi có hang sâu, là chỗ Từ Đạo Hạnh trút xác ở
đấy” [2,132]; ta thấy thật trùng khớp với nội dung thơ miêu tả. Có lẽ quê ông ở
đó và Cổ Sơn không phải là Núi Trống (Lộng Sơn, đông huyện Tam Dương, Sơn Tây)
mà Đại Nam nhất thống chí chép. Thánh đăng ngữ lục có nói
Phạm Nhân Khanh được vua Trần Minh Tông sai đưa thư cho Đại sư Huyền Quang. Vậy, rất có thể, trước khi đỗ và nhận
phẩm trật của triều đình, Phạm có thời gian dài sống bán quan bán ẩn, đi lại giữa
triều đình, quê nhà và Yên Tử sơn. Giữ địa vị biệt giá tòng quan, phía triều đình ông là tín sứ, phía lãnh đạo
giáo hội ông là thị giả. Trong hoàn cảnh như vậy, lại đỗ đồng khoa, Cổ Sơn thân
thiết với gia đình Nguyễn Phi Khanh là điều dễ hiểu. Vấn đề cũng đã khẳng định
quyết tâm phổ cập Viên Lâm Thiền của triều đình và giáo hội Yên Tử. Với điều kiện
Tống Nho đang lớn mạnh, giới lãnh đạo đất nước đã có bước chuẩn bị nhân sự kĩ
lưỡng; chọn lựa 3 trường hợp ứng với 3 tình thế tiêu biểu khác nhau nhằm thực
hiện bước chuyển hóa thiền trong Nho. Viên Lâm Thiền cũng đã giúp Phật Hoàng
hàng phục chính mình, dứt khoát đập phá dâm từ (thờ sinh thực khí) khắp nơi
trong nước. Nhà vua thông bạch cho toàn dân xóa bỏ dấu vết quần hôn, tạp hôn
trong xã hội. Bởi lẽ tệ mê tín phồn sinh, lạm dụng văn hóa phồn thực dễ dẫn đến
quốc nạn. Thời Trần Duệ Tông (1373-1377), Chiêm Thành biết được, thường đem
quân sang cướp đàn bà con gái đẹp đem về nước. Tôn thờ đạo lý tự nhiên, song Viên Lâm Thiền không truyền bá gợi dục, phồn sinh
phóng đãng.
Lúc về trí sĩ ở vườn Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã tổng kết
Viên Lâm Thiền, giai đoạn giữa Trần đầu Lê Sơ, qua mảng thơ viết về đề tài vườn
cảnh. Trước đó, sách vở nước ta đã bị giặc Minh cướp hết đem về nước, nhưng ông lại có đủ dữ liệu
thực tế, kinh nghiệm thực tiễn để phục dựng khá đầy đủ lý thuyết và hành dụng.
Do Viên Lâm Thiền đã có ảnh hưởng sâu đậm ở thời đại ông vậy.
Viên Lâm Thiền được phái Yên Tử xây dựng từ nền tảng kiến
lập văn hóa trên thực tế của dân
tộc ta. Ngày nay, các nhà
Nhân học văn hóa (Anthropology) đã khẳng định: Sự kiến lập văn hóa trên thực tế là một
phần bản tính sinh học của loài người.
Mỹ Tho, 19.11.2015
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng Hán văn Lý-Trần qua thơ và ngôn ngữ
thơ Nguyễn Trung Ngạn, NXB.Giáo Dục.
2.Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến
chương loại chí, tập 2, NXB.Giáo Dục.
3.Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần
Nhân Tông, NXB.Thành phố Hồ Chí Minh.
4.Văn hóa tùng thư số 29 (1966), Đại
Nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, Tổng bộ Văn hóa Xã hội xuất bản.
5.Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi
toàn tập, NXB.Khoa học Xã hội.
6.Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý-Trần,
tập 3, NXB.Khoa học Xã hội.
7.Emily A.Schultz, Robert H.Lavenda (2001), Nhân học một quan điểm về tình trạng nhân sinh, NXB.Chính trị Quốc
gia.