Vua Lý Thái Tông và Thiền sư Ấn Độ
vua ly
------------------
Hồ Sĩ Hiệp
Đời Lý xã hội thịnh đạt, giao lưu văn hóa và Phật giáo đã rộng mở.
Ngoài các nhà sư Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nhà sư An Nam (tên gọi của
nước ta thời xưa) đã biết đến thân thế và sự nghiệp một số vị Thiền sư của Ấn Độ
và tỏ lòng tôn kính sâu sắc. Ngày nay đọc lại thơ văn đời Lý chúng ta rất đỗi
ngạc nhiên và tự hào về tình cảm đó của các thi nhân và các nhà sư nước ta đối
với các nhà sư Ấn Độ từ thời buổi xa xưa ấy. Một trong những người đó là vua Lý
Thái Tông đời Lý.
Lý Thái Tông (1000-1054) tên thật là Lý Phật Mã, tên húy là Đức
Chính (theo sách An Nam chí và Việt sử lược)
hay Khai Nguyên (theo sách An Nam chí lược).
Khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi ông được phong là Khai Nguyên Đại Vương. Lý Thái
Tông là con thứ của Lý Thái Tổ nhưng các sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Lịch
triều hiến chương loại chí” lại nói ông là con trưởng. Ông sinh năm Canh Tý
(1000) người làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc Giang, thuở nhỏ thông minh và lớn lên có
chí hướng, thích thơ văn, âm nhạc, nghiên cứu sách vở. Làm vua trong thời thịnh
trị của nhà Lý, Lý Thái Tông quan tâm đời sống của dân chúng, coi trọng việc mở
mang kinh tế và chấn hưng văn hóa.
Trong sách “Toàn Việt thi lục”
Lê Quý Đôn đánh giá rất cao Lý Thái Tông và so sánh ông với vua Quan Vũ thời
Đông Hán. Ông mất năm nào không rõ. Sách “Đại
Việt sử ký toàn thư” nói ông mất năm 1054 (trong An Nam sử lược Lê Trác nói ông mất năm 1055) . Lý Thái Tông làm vua
27 năm. Năm 1042 ông ra lệnh cho biên soạn bộ “Hình thư” làm cơ sở pháp luật hiện hành. Tác phẩm hiện còn của ông
gồm hai bài chiếu và hai bài thơ. Theo sách “Thiền uyển tập anh” Lý Thái Tông rất am hiểu Phật giáo và thường luận
đàm với các Thiền lão về giáo lý Thiền học. Một hôm trong cuộc đàm đạo ông nói
rất tâm huyết và chân thành rằng: “Bàn về
nguồn gốc cái tâm của Phật Tổ thì các bậc thánh hiền thời xưa còn bị chê bai huống
gì những kẻ hậu học. Nay ta muốn cùng các vị trưởng lão trình bày sơ lược ý
nghĩ của mình. Mỗi người hãy thuật lại một
câu kệ xem ý tứ thế nào?”. Trong lúc mọi người đang suy nghĩ thì vua đã đọc
bài kệ gồm 4 câu sau đây mà đời sau cho rằng ông rất am tường triết lý Thiền học:
Bát-nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá quan vị lai Phật
Pháp tính bản tương đồng.
Dịch nghĩa:
Bát-nhã kỳ thực không có nguồn gốc,
Người là không và ta cũng là không.
Quá khứ, hiện tại và tương lai đều là
Phật cả,
Pháp tính vốn là tương đồng. (Hồ Sĩ Hiệp)
Bài kệ ngắn, triết lý sâu sắc, từ ngữ Phật học thông dụng đọc
lên ai cũng hiều. “Bát-nhã” (prajna) có nghĩa là “trí tuệ”. Theo “Bản vô” thì hiện tượng vạn vật trong vũ trụ đều là “không”. “Pháp tính” có nghĩa là “Phật
tính”, dùng để chỉ bản thể của vũ trụ đều là chung nên gọi là “Phật tính”. Mỗi câu của bài kệ đều chứa
đựng ý nghĩa triết học và giáo lý Phật giáo chứng tỏ nhà vua là người am hiểu
Phật Giáo và có lòng ngưỡng mộ đặc biệt với tôn giáo này. Điều này phù hợp với
không khí sùng đạo của thời đại bấy giờ. Đời Lý có một vị Thiền sư Ấn Độ quý
danh là Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci),
năm 574 đến truyền đạo ở Trung Quốc. Đến năm 580 ông sang An Nam và trụ trì ở
chùa Pháp Vân thuộc huyện Gia Ninh, phủ Thuận An thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay.
Mặc dù thời gian trụ trì ở chùa không lâu nhưng ảnh hưởng của vị Thiền sư Ấn Độ
này rất lớn. Ngài đã làm nhiều điều hữu ích cho dân chúng và Phật đạo. Tuy mất
đã gần 500 năm nhưng đến đời Lý mọi người, nhất là những người tu hành ở vùng Bắc
Giang, Bắc Ninh, vẫn còn tưởng nhớ và tỏ lòng tôn kính ngài, một vị Thiền sư
Thiên Trúc (Ấn Độ) khả kính. Đời Lý, mộ của ngài được truy táng với nghi thức
giản dị nhưng tràn đầy sự tiếc thương vô hạn của mọi người. Để biểu lộ tấm lòng
ngưỡng mộ của mình và muôn dân, vua Lý Thái Tông đã làm bài thơ truy táng Thiền
sư Ấn Độ là Tỳ Ni Đa Lưu Chi như sau:
Sáng tự lai Nam quốc
Văn quân cửu tập Thiền,
Ưng khai chi Phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời lâm diện kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.
Dịch nghĩa:
Lần đầu tiên (ngài) đến nước Nam
Được nghe ngài từ rất lâu am hiểu đạo
Thiền
Nên mở mang những tín điều của đạo Phật
Làm cho người đời sau hòa hợp cội nguồn
với một lòng.
Trăng Lăng-già tỏ sáng mênh mông
Sen Bát-nhã hương thơm bát ngát
Lúc nào (chúng ta) được gặp mặt nhau
Để cùng đàm luận giáo lý huyền diệu. (Hồ
Sĩ Hiệp)
Dịch thơ:
Cõi Nam đầu bước tới
Nghe đã đượm mùi Thiền
Tin Phật, mong thêm rộng
Nguồn lòng khéo hợp duyên
Non Già ngời bóng nguyệt
Cõi Nhã nức mùi sen
Họp mặt chừng bao tá?
Cùng nhau giảng lẽ huyền. (Ngô Tất Tố)
Bài thơ theo thể ngũ ngôn bát cú, lời lẽ đơn giản nhưng diễn tả
được tình cảm, lòng ngưỡng mộ, sự kính phục của Lý Thái Tông đối với vị Thiền
sư từ nước Ấn Độ xa xôi lần đầu tiên đến nước ta (Sáng tự lai Nam quốc). Tác giả dùng chữ “Nam quốc” tức nói đến tên gọi nước An Nam thời ấy như Lý Thường Kiệt
đã từng khẳng định chủ quyền lãnh thổ trong bài thơ “Thần” bất hủ là: “Nam quốc
sơn hà Nam đế cư” (Núi sông nước Nam
vua Nam ở). Câu thơ tiếp tác giả nói lên sự cảm mến của mình là từ rất lâu
đã nghe đến tên tuổi của ngài dày công chuyên chú thâm nghiêm giái lý đạo Thiền
từ bản quốc, rồi đến Trung Quốc truyền đạo và cuối cùng là đến trụ trì ở đất nước
phương Nam xa xôi. Mục đích của ngài đến nước Nam là để truyền giáo lý Phật
giáo đồng thời làm cho mọi người khắp nơi hòa hợp một lòng với cội nguồn đạo
pháp phát xuất từ Ấn Độ ngàn xưa. “Nhất
tâm nguyên” (nguồn gốc đồng tâm nhất
trí một lòng) chẳng riêng gì tâm nguyện của ngài mà là của hàng vạn triệu
người con của Đức Phật ở mọi nơi.
Hai câu (5 và 6) của bài thơ là hai câu đối nhau từng chữ: “Lăng-già” là tên một ngọn núi ở nước Xây
Lan (miền Nam Ấn Độ) nơi Đức Phật thời xưa đã đích thân thuyết pháp ở tại núi
này. Về sau địa danh “Lăng-già” dùng
để chỉ các sách kinh điển của đạo Phật. “Trăng
Lăng-già” đối với “Sen Bát-nhã” vừa
hình ảnh vừa ý tứ. “Trăng” (nguyệt) của
thiên nhiên và “hoa sen” (liên) tượng
trưng cho sự thanh khiết của đạo Phật sẽ mãi mãi vĩnh cửu. Hai câu kết (7 và 8)
của bài thơ khá hay, diễn tả sự mong ước của tác giả ở tương lai. Nếu sáu câu
thơ đầu là sự hoài niệm về quá khứ thì hai câu cuối cùng của bài thơ là sự hoài
vọng ở tương lai mang ý nghĩa lãng mạn, mong ước điều tốt đẹp sẽ đến. Đó là sẽ
có lúc nhà vua nước Nam và vị Thiền sư nước Ấn Độ (đã mất rồi) lại gặp nhau để
cùng nhau đàm luận những điều huyền diệu của Phật pháp. Hai chữ “Trùng huyền” tác giả lấy từ ý trong sách
của Lão Tử là: “Huyền chi hựu huyền chúng
diệu chi môn”; có nghĩa là: Đã hiểu sâu rồi lại hiểu sâu thêm để đến cái cửa
của sự huyền diệu trong giáo lý Thiền học.
Bài thơ theo chủ đề “Truy
tán”, “Truy điệu” nhưng nội dung
không toát lên sự tiếc thương, tổn thất và đau buồn mà trái lại tràn đầy sự cảm
xúc, tinh thần lạc quan, mong ước một tương lai an lành, tốt đẹp sẽ tới. Bài
thơ có nhiều từ thuộc dòng thơ Thiền như: Thiền, chư Phật, Lăng-già, Bát-nhã,
và nhiều từ có hình tượng trong sáng, gợi cảm giác đẹp như: nguyệt (trăng), hạo
hạo (mênh mông), phần phần (bát ngát), liên (hoa sen) khiến cho người đọc cảm
xúc mỗi khi tiếp xúc với những thi phẩm giàu giá trị nhân văn và ý vị của thơ
Thiền đời Lý.