Phu nhân Thắng Man 10 hoằng thệ và 3 đại nguyện
phu nhan
Chân
Hiền Tâm
Phu nhân Thắng Man là
con gái của vua Ba Tư Nặc và hoàng hậu Mạt Lợi.
Vua Ba Tư Nặc lên ngôi
sau khi Phật thành đạo không bao lâu. Lúc đầu ông là người bạo ác bất tín. Sau
được Phật giáo hóa nên kính tin Tam bảo hết mực và là vị đại ngoại hộ của Phật
ở thành Xá-vệ lúc đó. Phu nhân Mạt Lợi vốn là đứa tớ gái, một hôm Đức Phật vào
thành khất thực, do thấy tướng hảo của ngài mà sinh lòng kính tin, cúng dường
thức ăn để cầu hết kiếp tôi đòi. Nhờ phước đức ấy, bà trở thành phu nhân của
vua Ba Tư Nặc. Do hưởng được lợi ích từ Đức Phật như thế, nên lòng tin của hai
vị ngày càng tăng trưởng. Hai vị cũng muốn con gái mình được vậy. Vì thế, hai
vị đã sai sứ quân Chân Đà La mang thư đến cho phu nhân Thắng Man. Đó là nhân
duyên giúp Thắng Man gặp Phật trong hiện kiếp.
Do đã có nhân duyên từ đời
quá khứ, nên đọc thư xong, phu nhân sinh tâm vui mừng chưa từng có, bà đối
trước Chân Đà La nói kệ:
Ta
nghe danh Như Lai
Thế
gian rất khó gặp
Lời
này nếu chân thật
Phải
cho ông y áo
Nếu
Phật Thế Tôn kia
Lợi
ích thế gian hiện
Tất
vì ta thương xót
Khiến
ta thấy chân tướng.
Nói vừa xong, đã thấy thân
tướng không thể nghĩ bàn của Như Lai hiện trên hư không, đại quang minh chiếu
khắp. Thắng Man cùng thân quyến tụ lại, chấp tay chiêm ngưỡng vái Phật và xưng
tán Đức Đạo Sư. Phật nghe xong nói:
Ta
xưa cầu bồ-đề
Từng
khai thị cho bà
Nay
bà gặp lại ta
Đời
sau cũng như vậy.
Nói kệ xong, trước đại
chúng Phật thọ ký cho phu nhân Thắng Man: “Bà
nay xưng tán công đức thù thắng của Như Lai. Do thiện căn này,
trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ở nơi loài người và trời thường được làm vua tự
tại, chỗ thọ dụng đều được đầy đủ, sinh ra chỗ nào cũng được thấy ta như hiện
nay đang xưng tán ta không khác. Sẽ lại cúng dường vô lượng vô số chư Phật Thế
Tôn. Qua hai vạn a-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác. Cõi nước Phật đó không có các đường ác và các thứ như đau
thương, già, bịnh, khổ…”.
Trong lời thọ ký, chúng ta thấy có bốn điểm chính:
1/ Thành tựu Phật quả. Là lúc tự lợi và lợi tha viên mãn. Điều đó cho
thấy những gì phu nhân đã phát nguyện và thực hành đều đưa đến kết quả mỹ mãn.
2/ Sinh ra chỗ nào cũng làm vua tự tại. Chánh báo tốt đẹp đưa đến y
báo tốt đẹp. “Vua tự tại”, mang một phần nghĩa là vua ở thế gian (tức làm chủ
một trụ xứ nào đó), còn mang thêm nghĩa tự tại số một trong trụ xứ đó. Nương
vào cái nhân phu nhân đã gieo trong quá khứ và hiện tại mà Phật đã thọ ký cái
quả bà nhận được sẽ như thế. Việc đó cho thấy gốc lành của bà không nhỏ.
2/ Chỗ thọ dụng đều được đầy đủ. Ý này phải được hiểu theo nghĩa tùy
duyên. Tùy hoàn cảnh, tùy trú xứ mà lập bày sự đầy đủ. Đầy đủ trong nhân duyên
mà bà đang an trú. Nó không mang tính cố định. Sự thọ ký đó cho ta thấy “một
cái tâm luôn biết đủ” ở phu nhân Thắng Man dù trong hoàn cảnh nào.
3/ Sinh ra chỗ nào cũng được thấy Phật như hiện đời đang thấy Phật.
Thấy Phật nói đây, không chỉ với ý nghĩa thấy sắc tướng thô của Phật mà bao gồm
cả việc thấy thân vô tướng của Phật. Phải với ý nghĩa đó, phu nhân Thắng Man
mới có thể thấy Phật dù ở bất cứ thời kiếp nào và bất cứ ở đâu.
Như hiện đời, kinh nói
bà thấy sắc tướng của Phật với đại quang minh chiếu khắp, chính là muốn nói đến
thân vô tướng của Phật, cũng chính là nhận ra tánh Phật sẵn đủ trong chính mình.
Hãy nghe Phu nhân nói kệ:
Diệu
sắc thân Như Lai
Thế
gian không gì bằng
Cũng
không thể nghĩ bàn
Cho
nên con kính lễ
Sắc
Như Lai vô tận
Trí
tuệ cũng như vậy
Tất
cả pháp thường trụ
Cho
nên con quy y…
Chỉ với sắc tướng thô
thì chưa đủ để xưng tán thân Phật là “diệu”, là “vô tận”, là “không thể nghĩ
bàn”. Hóa thân với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp có thể gọi là “diệu” so với thân
tướng của chúng sinh, nhưng cái gọi là “không thể nghĩ bàn” thì phải vượt ngoài
cái thấy thường tình của người đời. Thân đó không có bờ mé, không bị chi phối
bởi không thời gian, nên nói “vô tận”.
Chỉ với hóa thân Phật thì
không đủ để phu nhân Thắng Man xưng tán Như Lai theo cách như thế. Cũng không
đủ để Phu nhân được Như Lai thọ ký như vậy. Càng không đủ để Phu nhân có thể giảng
thuyết chỗ sâu mầu mà Như Lai đã nói. Phải là cái thân vô tướng mà tất cả chúng
sinh và Phật đều đủ, thân ấy mới có thể gọi là “chân”, như Phu nhân đã cầu khẩn
“Khiến ta thấy chân tướng”. Nói “chân” thì biết “không sinh cũng không diệt”. Cái
chủng ấy đã hiện hành nơi phu nhân Thắng Man. Giờ nương lực hộ trì của Tam bảo cùng
hạnh nguyện độ sinh mà tăng trưởng để thành tựu quả Phật trong tương lai.
Xin thương xót hộ trì
Khiến pháp chủng tăng
trưởng
Cho đến thân tối hậu
Thường ở trước Như Lai
Phước nghiệp con đã tu
Hiện nay đến cuối đời
Do lực thiện căn ấy
Nguyện Phật hằng nhiếp
thọ.
MƯỜI
HOẰNG THỆ
Sau khi được Phật thọ
ký, Phu nhân Thắng Man đối trước Phật, phát 10 hoằng thệ. Là trong quá trình
hành Bồ-tát đạo, bà thề sẽ thực hiện 10 việc rộng lớn này. Nói rộng lớn, vì cần
có tâm rộng lớn mới có thể phát ra lời thề đó, mới có thể thực hành lời thề đó.
Các hoằng thệ này được thực hiện trong thời gian lâu xa, ba vô số a-tăng-kỳ
kiếp, nên nói rộng lớn. Rộng lớn nữa, vì nó giúp thành tựu quả vị Phật.
Hoằng thệ thứ nhất
“Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ-đề, đối với các giới
đã thọ không để phạm”.
Lời hoằng thệ này có
hai yếu tố cần bàn. Một, là việc chứng quả. Hai, là giới đã thọ.
Nói chứng quả vì chứng
nhân đã xong. Kinh Niết-bàn nói: “Phật tánh là nhân. Niết-bàn là quả”. Là muốn
nói đến cái nhân Phật tánh sẵn đủ trong mỗi chúng sinh. Nhà thiền gọi chỗ chứng
này là kiến tánh, là thấy lại được tánh thể mà ta và Phật đồng có. Tuy nói thấy
mà thật là không có người thấy cũng không có tánh được thấy. Nhân này nếu chưa chứng
được thì quả Phật còn xa vời.
Giới đã thọ, bao gồm
giới của Phật tử tại gia, Phật tử xuất gia và giới Bồ-tát. Như hiện đời với
thân tướng là phu nhân thì bà sẽ giữ gìn 5 giới của người tại gia. Nếu thọ thêm
giới Bồ-tát thì sẽ giữ thêm giới Bồ-tát. Như 10 hoằng thệ này cũng được coi là một
loại đại giới. Nó là giới của hàng Đại Bồ-tát. Một khi đã phát tâm thực hành 10
điều này thì bà sẽ giữ gìn không để phạm 10 điều này. Nếu hiện thân là Tỳ-kheo
thì sẽ giữ tất cả giới mà Tỳ-kheo đã thọ.
Phần giới luật nói đây,
chúng ta dễ coi thường. Dù ba pháp chính của hành giả tu thiền là giới, định,
tuệ, nhưng thường thì mấy vị mới đến với Thiền, hay coi thường nó. Ngày mới tới
với Thiền, tôi cũng chỉ tập trung cho vấn đề thiền định mà ít quan tâm đến mặt
giới luật. Cho đến một ngày…
Đi chợ là việc hằng
ngày của tôi.
Buổi sáng hôm ấy, một
con ruồi đã bay vào tô hủ tiếu của con nhỏ bán thịt heo. Nó không chịu ăn,
nhưng con bán hủ tiếu thì nhất quyết phải lấy lại tiền bằng được.
Nếu mình có mặt sớm một
chút, tức ngay cái lúc nó đòi tiền, mình xỉa ra năm ngàn cho nó thì yên mọi bề.
Xui là mình ra trễ. Chỉ kịp thấy hai con xáp vào nhau. Một con cầm dao phay. Một
con cầm miếng sành bể từ việc đập tô hủ tiếu (Dù hủ tiếu chưa đòi được tiền,
vẫn hào phóng đập luôn cái tô. Sân có cái hay vậy đó). Hai con xáp vào nhau.
Mình chỉ kịp chui tọt vào giữa. Một tay chụp tay cầm dao phay, một tay chụp tay
cầm miểng sành, miệng thì la cầu cứu: “Lên kêu ban quản lý xuống giùm coi!”.
Hai con đánh nhau bằng hai
bàn tay còn lại, may là không trúng mình chút nào. Cứ thế mà đưa qua đẩy lại,
mình thì kẹt ở giữa. Cho đến khi có một người nhào vô đỡ giúp. Chắc thương xót
cho cảnh cô thân độc mã của mình. Không ngờ, xàng qua xàng lại, vừa lúc thuận
tay, con nhỏ cầm dao phay chụp ngay đĩa cân gần đó, đánh lên đầu người mới vào.
Vừa tức vừa đau bà hét: “Tao đã vào can giùm sao còn đánh tao?”. Không phải nó
đánh bà. Nó đánh con kia nhưng hụt tay qua bà, nên bà có phần.
Nghe tiếng boong, tôi như
người tỉnh mộng. Dội ngược! Té ra khi nãy, thấy việc quên mình. Quên mất thân
mình chỉ là nữ nhi tay yếu chân mền, không có tấc võ lận lưng. Giây phút “tự
nhiên” qua đi, nhường chỗ cho tâm phân biệt hiện tiền. Dội ngược rồi thì không
còn gan chường mặt đó nữa. May là bảo vệ cũng vừa xuống kịp.
Nhờ cái boong đó mà tôi
ngộ ra một điều: Giữ gìn giới luật nghiêm túc là việc khá quan trọng của người
tu. Cũng chợt nhận ra vì sao thiện nghiệp đưa đến cái quả bất hạnh (như cứu
người mà mất mạng mình)? Chỉ vì quá khứ coi thường giới sát. Sát người thì khi
đủ duyên gặp lại cái quả sát mạng. Sát sinh vật thì tùy mức độ mà cảm cái quả
thương tật hay chết chóc. Nhân quả ba thời trước sau so lệch, thiện nhân cứu
người, duyên chưa đủ để phát huy, chỉ có thể phát quả lành trong tương lai, nên
trên mặt hiện tượng mình thấy thiện nghiệp đưa đến quả dữ.
Tóm lại, giới luật
không phải chỉ cần cho việc thiền định mà còn rất cần cho Bồ-tát đạo. Không bị
quả báo sát hại thì mới có thể vào trong nguy nan cứu người mà không gặp nạn.
Không thì một lần đối đầu rồi rút binh lẹ. Công hạnh Bồ-tát, coi như nhụt chí. Bởi
tâm có tính lưu giữ. Ghi đó, đủ duyên liền hiện. Mình chỉ thấy sợ những việc
như thế mà chưa đủ lực để hiểu vì sao lại sợ. Đã sợ thì việc khó không làm. Cho
nên, muốn Bồ-tát đạo viên mãn, giới cần giữ kỹ. Kỹ mà không chấp. Bởi chấp thì
những gì thuộc về nghịch hạnh mình không làm được. Công hạnh độ sinh không thể
viên mãn.
Hoằng thệ thứ hai
“Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ-đề, đối với các bậc Sư
trưởng chẳng khởi tâm kiêu mạn”.
Kiêu mạn, là tự cao và
có tâm khinh thường người khác. Thấy mình không thua người, gọi là mạn. Thấy
mình hơn người, gọi là đại mạn. Kinh Đại Bửu
Tích, phẩm Pháp hội Đại thừa thập pháp ghi: “Mạn là cho rằng, chỗ tôi có những nhà cửa, dòng họ chẳng kém người
khác. Đại mạn là cho rằng, thân thể, dòng họ, tài sản của tôi hơn người khác.
Từ đó, không có lòng kính nể đối với người khác”. Đó là tâm kiêu mạn của
phàm phu. Luận Tối thượng thừa của Tổ
Hoằng Nhẫn thì ghi: “Thế nào là tâm ngã sở diệt? Là có chút tâm
cho ta hơn người, tự nghĩ ta hay như thế. Tâm ngã sở ấy là bệnh trong Niết-bàn…”.
Nói bệnh trong Niết-bàn thì biết tâm kiêu mạn này không phải chỉ phàm phu mới
có, mà là bệnh của cả kẻ tu đạo. Phàm phu kiêu mạn ở mặt gia thế, danh vọng,
lợi lộc. Kẻ tu đạo kiêu mạn ở mặt trí tuệ, phước lớn, chúng đông v.v…
Kiêu mạn là bệnh mà nữ
nhi thường vấp hơn nam nhi, nhưng nó là bệnh chung của thiên hạ. Chỉ là ít hay
nhiều, thô hay tế. Được chút gì hơn người thì hay có tâm coi thường người khác,
dù so với người khác, có những việc mình không làm được. Duy thức học xếp kiêu mạn vào chướng phiền não. Kiêu mạn phá hoại
công phu thiền định, khiến tâm không bình an. Vì thế phu nhân phát tâm thề rằng:
“Không khởi tâm kiêu mạn đối với các bậc Sư trưởng”.
Sao không khởi tâm với
tất cả chúng sinh mà chỉ nói đến Sư trưởng? Bởi khởi tâm kiêu mạn rồi thì không
còn học được gì ở chư vị nữa. Không khởi tâm kiêu mạn thì có thể học được mọi
thứ ở bậc Sư trưởng. Từ việc hạp nhãn cho đến việc không hạp nhãn. Thuận nghịch
đều tiếp thu được.
Một lý do nữa khiến nảy
sinh việc coi thường các bậc Sư trưởng là vì chư vị được tâm thức của chúng
sinh đóng khung trong những thứ như phúc đức và trí tuệ. Chính vì cái đóng
khung đó mà khi có gì trái đi, chư vị dễ bị coi thường hơn thường dân. Song thế
giới này làm sao không có việc xảy ra khi mọi thứ đều nằm ở thế đối đãi? Chúng
sinh đa bệnh. Có người chỉ cần dùng Chánh pháp là độ được. Có người, lúc đầu phải
dùng tà pháp mới độ được. Sư trưởng thì tùy duyên độ người. Không hiểu được
loại phương tiện đó thì dễ khởi tâm coi thường.
Đề Bà Đạt Đa, một kẻ
gian tham và bạc ác, tìm mọi cách để gây thương tổn cho Đức Phật trong hiện đời,
nhưng quá khứ lại là một đại thiện tri thức mà Phật đã theo cung dưỡng phụng
thờ cả ngàn năm để nhận được pháp yếu, tương lai sẽ thành Phật hiệu là Thiên
Vương Như Lai. Kinh Đại Bửu Tích,
phẩm Pháp hội Đại thừa thập pháp nói: “Trong
500 đời, sinh chỗ nào Đề Bà Đạt Đa cũng là thiện tri thức nhưng thị hiện làm
oan gia, hiển bày chư Bồ-tát và chư Như Lai có vô lượng công đức. Nhưng các ngu
nhân đều tưởng là thật, họ cho rằng Đề Bà Đạt Đa là kẻ hại Phật. Do sự nhận
định bất thiện ấy mà phải đọa trong tam đồ”. Nhận định không đúng còn đọa
tam đồ huống là khởi tâm khinh mạn? Cho nên, pháp giới này rất khó nghĩ bàn.
Khởi tâm coi thường hay không thì mọi thứ đều có nhân duyên của nó. Thiện hay
ác, xấu hay tốt ở một vị, đều có nhân duyên của chúng sinh trong đó. Không phải
mình coi thường thì nó mất đi mà không coi thường thì nó còn lại. Mọi việc xảy
ra, không lệ thuộc vào việc coi thường hay không coi thường của mình. Nhưng nếu
mình coi thường ai đó thì mình lại đánh mất sự bình an của chính mình. Chẳng
may người đó là thị hiện của hàng Đại Bồ-tát, dùng nghịch hạnh độ sinh, giúp
người tu phát triển trí tuệ và nhẫn lực, thì coi như mình lãnh đủ. Không phải là
dại lắm sao? Vì thế, giới “không khởi tâm kiêu mạn” là một trong các hoằng thệ
mà phu nhân Thắng Man sẽ gìn giữ không để phạm.
Hoằng thệ thứ ba
“Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ-đề, đối với chúng sinh
không khởi tâm oán giận”. Đối với chúng sinh là đối với những người hữu
duyên với mình, dù là thuận hay nghịch. Với những vị này, không khởi tâm oán
giận họ.
Người khi nào cũng biết
vâng lời, kính lễ, ca tụng mình… đương nhiên không có tâm giận tức mà chỉ có sự
thương yêu. Giận tức chỉ xuất hiện khi người ta làm trái ý mình. Trái ý này có
nhiều dạng. Không nghe lời, hay nói linh tinh, thiếu lễ phép v.v…
Oán giận xuất hiện khi thiên
hạ không chỉ gây phiền toái cho mình mà còn làm mình khổ não không ít. Khổ não
kéo dài dễ sinh oán giận.
Oán giận nảy sinh vì
mình không đủ trí tuệ và từ bi trong quá trình hành Bồ-tát đạo.
1/ Đứng ở mặt trí tuệ
mà nói, cần phải hiểu thế giới này là thế giới Sa-bà. Sa-bà, là kham nhẫn. Phải
kham nhẫn mới có thể thấy an vui ở cõi đời này. Vì thế, không thể không có việc
trái ý.
Chúng sinh cần độ, là
chúng sinh phước mỏng nghiệp dày. Ba nghiệp bất thiện sẽ nhiều hơn thiện. Tiếp
xúc với chư vị, không thể không có trái ý. Chỉ cần bất đồng về mặt tư tưởng là “khí”
đã không đồng. Cái khí không đồng này, thầy bói gọi là “khắc”, là thứ khiến
mình sinh phiền não. Chưa kể những việc như nói một đường hiểu một nẻo, hiểu ý
tốt thành hướng xấu v.v… đều là những duyên giúp sinh phiền não khá nhiều.
Kế là về hành vi. Một
đại gia từng nói với tôi: “Có tiền tôi mang cúng chùa cho khỏe, cho người nghèo
phiền não bực bội. Người thì gian tham, người thì miệng mồm không biết giữ, kẻ
lại vô ơn v.v… Đủ thứ làm mình phiền
não. Cúng chùa vừa được phước lớn, vửa khỏe cái tâm”. Ừ thì khỏe. Nhưng nếu
không có mấy thứ nhiễm ô đó thì chúng sinh cần gì ở Bồ-tát? Bồ-tát cũng không
có cơ hội thực hiện việc lợi ích cho bản thân mình. Hiểu vậy thì bình tâm hơn
với những bất như ý xảy ra với mình.
Ngay cả những chúng
sinh chịu quy hướng rồi, cũng chưa hẳn đã không có những hành vi bất thiện khiến
Bồ-tát phiền lòng. Bởi nghiệp tập sâu dày, không phải hiểu rồi liền dứt, mà cần
có thời gian để tập nghiệp thành mòn mỏng. Hiểu vậy thì việc tái phạm liên hồi một
thói quen xấu không phải là việc lạ. Bồ-tát nếu thấu hiểu được quy luật biến
chuyển của tâm như thế, sẽ thấy bình thường khi phải đối diện với các trường
hợp như vậy.
Một hạng chúng sinh nằm
trong tầm nhắm của Bồ-tát nữa, là kẻ phước không mỏng mà trí cũng không nhiều. Chư
vị này, có khi còn khó độ hơn người thiếu phước. Bởi phước dày chính là nhân
duyên khiến con người trở nên kiêu mạn và cố chấp. Chư vị thường nhầm lẫn trí
tuệ với phước báu. Chính vì vậy, lời nói phải chưa chắc đã có giá trị với chư
vị, cho đến khi quả báo xảy ra…
Một khi đã nắm rõ được
tính chất của Sở độ thì Năng độ sẽ bình tâm hơn trong mọi tiếp xúc.
Có điều, xác định được tính
chất của Sở độ rồi mà tập sân của Năng độ mạnh quá, chỉ cần có duyên liền khởi,
tức hiểu biết chưa đủ để kiểm soát sân giận, thì cũng khó tránh được sân giận
khi đối duyên tiếp cảnh. Đây là trường hợp mà kinh luận nói: “Kiến hoặc đã trừ
mà tư hoặc chưa xong”. Vì thế, hàng phục tâm sân là việc hằng ngày và tối quan
trọng của Bồ-tát. Hàng phục được thì kiểm soát được khi tiếp duyên.
Một cách giúp tâm Bồ-tát
không oán giận nữa, là đừng thấy mình là Năng độ, đối tượng là Sở độ. Được như
kinh nói: “Năng độ sở độ tánh không tịch”
thì không có gì để bàn. Chưa được vậy thì cần phải có cái nhìn duyên khởi đối
với các pháp. Duyên khởi, là thấy Năng độ và Sở độ không tánh. Năng độ cũng
chính là Sở độ. Sở độ cũng chính là Năng độ. Bồ-tát là người khai mở trí tuệ
cho chúng sinh nhưng chúng sinh cũng là người giúp Bồ-tát phát triển nhẫn lực
và trí tuệ. Bồ-tát là Bồ-tát của chúng sinh. Chúng sinh là Bồ-tát của Bồ-tát.
Một lần, trong một buổi
tham vấn, có người đã hỏi: “Dù tâm không khởi
niệm, nhưng khi mọi thứ được nhìn thấy rõ ràng, không lẫn lộn, thì trong đầu ta
cũng đã có khái niệm đây là cái bàn, kia là cái ghế, mới không lẫn lộn từ thứ
này qua thứ kia. Nếu vậy thì ta đang bị “tri kiến lập tri", mà “tri kiến
lập tri” tức "vô minh bổn”, sao có thể gọi đó là tâm hiện lượng?”. Tâm
hiện lượng, tuy là từ của Duy thức học nhưng bất cứ người tu thiền nào cũng
phải biết về nó. Vì nó là một chặng đường mà hành giả tu thiền phải trải qua. Tôi cũng từng trải nghiệm ít nhiều về cái gọi là “hiện lượng” này,
nhưng mọi việc chỉ thực sự rõ ràng khi câu hỏi được đặt ra.
Câu hỏi là của một phụ
nữ lớn tuổi. Ở một mặt nào đó, trí tuệ cũng như công phu của bác không thể hơn
tôi. Bởi nếu bác đã trải qua ít nhiều trạng thái hiện lượng thì bác đã không
đặt ra câu hỏi như vậy. Nhưng nhờ câu hỏi của bác mà tôi thông tỏ nhiều điều.
Đúng là mọi thứ được
nhìn thấy rõ ràng không lẫn lộn, khi tâm ở trạng thái hiện lượng. Nhưng vẫn
không bị tình trạng “tri kiến lấp tri tức vô minh bổn”. Vì dù nhận biết rõ ràng
mọi thứ, vẫn không cần khởi niệm đây là cái bàn, kia là cái ghế. Như trạng thái
nhìn các đồ vật chưa từng biết tên, mọi thứ vẫn được phân biệt rõ ràng, không cần
phải có một tên gọi mới phân biệt được cái này với cái kia. Trạng thái hiện
lượng cũng như thế. Cái khác là một bên không biết tên các sự vật, một bên biết
tên các sự vật. Dù biết mà sở tri đã “ngủ yên”. Nó không làm nền tảng để chúng
ta dùng đó phân biệt mọi thứ. Vì thế, tuy có tri kiến mà không lập tri. Đó là loại
tri kiến tương ưng với tri kiến Phật. Rõ ràng mọi thứ, nhưng không cần phải
khởi niệm mới thành rõ ràng.
Một khi đã nhận ra
chúng sinh là Bồ-tát của Bồ-tát, có thể giúp Bồ-tát mở rộng trí tuệ, tăng
trưởng nhẫn lực, giúp hiển phát những chủng tử ngủ ngầm trong tạng thức của Bồ-tát,
giúp Bồ-tát thêm nhiều phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh, từ việc nhỏ đến
việc lớn, dù thuận duyên hay nghịch duyên… thì Bồ-tát sẽ có tâm biết ơn hơn là
sân giận khi có việc trái lòng.
2/ Đứng ở mặt từ bi mà
nói, từ bi có thể xóa sân giận. Đó là nước cam lộ của Quán Thế Âm. Song từ bi
này từ đâu mà có? Người xưa nói “Có trí thì có bi”. Trí đi liền với bi. Không
trí thì không bi. Tức sự hiểu biết có thể giúp bi hiện hành và phát triển.
Hiểu biết có nhiều
loại. Có loại chỉ dừng ở mặt học hỏi và thâu lượm kiến thức hay kinh nghiệm của
người khác. Có loại do chính bản thân mình trải nghiệm về những học hỏi đó. Có
loại do thấu được thực tướng của vạn pháp. Có loại do sống được với tánh thể ấy
của mình. Tùy sự hiểu biết cạn sâu mà từ bi nhiều hay ít, cạn hay sâu.
Đại trí duyên khởi với
đại bi, nên khi đại bi hiện tiền thì không có chúng sinh nào đáng giận. Càng không
có tâm oán tức. Oán giận chỉ xảy ra khi trí tuệ vắng mặt. Niệm nào trí, bi ngay
đó xuất hiện. Niệm nào si, bi ngay đó ẩn mặt.
Trong kinh Bồ-tát thiện giới, Đức Phật dạy: “Nếu Bồ-tát phạm những điều thuộc tham, nhiều
như số cát sông Hằng, chẳng gọi là hủy giới. Nếu một lần phạm sân, làm nhân
duyên hủy giới, gọi là phá giới. Vì sao thế? Này Ưu Ba Ly! Tâm giận dỗi bỏ rơi
chúng sinh. Tâm tham ái có thể che chở chúng sinh. Nếu yêu mến chúng sinh chẳng
gọi là phiền não. Giận dỗi bỏ rơi chúng sinh, gọi là phiền não sâu nặng”. Tham
ái nói đây, được đặt trong cái duyên là Bồ-tát và chúng sinh, không phải là
giữa chúng sinh và chúng sinh. Cho nên, phần tham ái này đã được Bồ-tát hóa ít
nhiều. Không phải là tham ái mang tính dâm ái của chúng sinh. Là do so với đại
bi không dính mắc của Phật mà nói tham ái. Tham ái này giúp Bồ-tát yêu thương
và che chở chúng sinh hữu duyên với mình. Nhờ tình thương đó mà Bồ-tát dám thí xả
thân mạng cho chúng sinh, giúp chúng sinh thành tựu quả bồ-đề vô thượng. Sân
giận mang tính ngược lại. Khi sân giận làm chủ, Bồ-tát chỉ muốn đẩy chúng sinh
ra khỏi trú xứ của mình, càng xa càng tốt. Nhưng đẩy đi đâu khi duyên vẫn còn?
Trốn chỗ nào khi nợ trả chưa xong? Chỉ thêm cột trói theo chiều ngược lại. Vì
thế, Phật kết luận: “Bồ-tát si mê không
có phương tiện hay khéo lo sợ phạm ái. Bồ-tát có trí, khéo biết phương tiện, lo
sợ phạm sân, chẳng sợ phạm ái”. Bồ-tát có trí, biết ái không phải là thứ
nên vướng, nhưng có thể dùng nó làm phương tiện dẫn dắt chúng sinh. Chúng sinh một
khi chuyển tâm thì ái liền thành bi. Bồ-tát nếu sinh tâm sân, sẽ khởi tâm muốn xa
lìa. Đánh mất công hạnh cao quý của mình. Cho nên, một trong các hoằng thệ của Phu
nhân là không khởi tâm oán giận đối với chúng sinh hữu duyên với mình.
Hoằng thệ thứ tư
“Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ-đề, đối với sắc thân
và những sự tốt đẹp của người, không khởi tâm ganh ghét”.
Đây nói về tính đố kỵ
của con người. Nói ganh là do thấy mình không bằng người. Nói ghét, vì không
ưa. Mấy tính xấu này, nữ chiêm ưu thế hơn nam. Nếu một nam nào đó sở đắc được
tính khí này thì thường bị mắng là “mang tính đàn bà”. Điều đó cho thấy sự vượt
trội của nữ giới trong lãnh vực này. Chắc vì vậy mà trong tiếng Hán, từ nào
diễn tả các tính xấu, đa phần đều có bộ “nữ” trong đó.
Người nào mà cái “tôi”
lớn thì có khuynh hướng luôn muốn nổi bật, luôn muốn trong vị trí hàng đầu. Vì
thế, thứ gì hơn nó, nó có khuynh hướng không ưa. Cho nên, thường người ta chỉ
sinh tâm đố kỵ khi thấy người hơn mình. Ít ai sinh tâm đố kỵ khi thấy người
thua mình. Thiền sư Sessan nói: “Ta dễ cảm thông với người khác khi sự bất hạnh
hay tai ương chụp xuống đầu họ, khi một người quen hứng chịu sự bất hạnh, ta
ngạc nhiên làm sao khi một cảm giác sôi sục trong ta”, nhưng “Những người bạn
tốt, gần đây đã trở nên xa cách vì tôn ông bên cạnh vừa xây một cửa hàng”.
Thói đời thường như thế.
“Sắc thân’, là muốn nói
đến phần thân thể của mỗi người. “Sự tốt đẹp” là muốn nói đến dung mạo, trí
tuệ, phước báu và đức hạnh nơi mỗi người. Với các thứ đó, Phu nhân hứa không
sinh tâm ganh ghét. Bởi Bồ-tát hạnh, chủ yếu là để giúp tất cả, trong đó có bản
thân của Bồ-tát, cùng có được đức tướng và trí tuệ của Như Lai. Nếu khởi tâm
ganh ghét thì không thể thực hiện Bồ-tát hạnh, việc thực hiện cũng không được
viên mãn.
Món ganh ghét này không
phải dễ bỏ. Nếu chúng ta không đủ tâm từ và không nhìn đời bằng cái nhìn duyên
khởi thì khó có thể thoát được sự ganh ghét này. Ganh ghét xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Thấy người hơn mình nên ganh. Vì thấy thường xuyên bị đụng chạm nên
ghét. Do người mà tình cảm và vị trí dành cho mình bị mất, nên ganh ghét. Đó là
vài nguyên nhân thường dẫn đến sự ganh ghét trong phạm vi Phu nhân nói
đây.
Có người kể với tôi: Một
vị giảng pháp, chúng khá đông, tính hạnh được nhiều người quý mến. Tuy vậy, lại
không thể bỏ tật ganh ghét với một cư sĩ. Cách đây mười mấy năm, cô vô tình
nhìn thấy hành vi ấy ở vị giáo thọ. Cô nghĩ chỉ là việc bất giác nhất thời, nó
sẽ chấm dứt theo thời gian tu hành và độ sinh. Nhưng không, mười mấy năm sau, cô
lại vô tình nhìn thấy hành vi ấy nhiều lần nữa, với mức độ rõ hơn và thái độ làm
chủ tệ hơn. Đương nhiên không phải chỉ mình cô thấy việc ấy.
Cái ghen ghét ấy, phải
nói rất khó bỏ. Nếu chúng ta không ý thức để trừ bỏ thì dù thời gian bao xa
cũng không hết được, chỉ ngày càng huân sâu vào tạng thức. Huân càng sâu thì
khi muốn bỏ lại càng cực.
Chỉ là sắc đẹp, trí tuệ
và phước đức của một người, việc ganh ghét coi vậy mà dễ khắc phục. Chỉ cần coi
trọng bản thân chút thôi thì lòng ganh ghét không còn. Nhưng nếu chúng dính
liền với một người, mà người này lại chiếm mất ưu thế của mình trong lòng một
người khác, hoặc cứ phải gặp hoài những đụng chạm mình không thích, thì sự ganh
ghét không phải dễ bỏ. Bởi nó chạm đến bản ngã của con người.
Nếu không gầy dựng được
cho mình cái thấy “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, không tạo được cho
mình cái thấy Nhất thừa “Tất cả âm thanh ngữ ngôn của chúng sinh đều nhập pháp
luân”,
không thể phản quan tự kỷ, cũng không đặt lý tưởng Bồ-tát hạnh lên làm đầu, thì
Bồ-tát sẽ rơi vào cái gọi là “chạy theo những vụn vặt thường tình của người đời”.
Nếu biết đặt cái chung
trên cái riêng, thấy được tâm có tính huân tập mạnh, cũng đủ trí tuệ để hiểu
khởi tâm đố kỵ với trí tuệ và phước đức của người khác mang lại hậu quả không
tốt, như Thiền sư Sessan từng nói: “Kinh
nói không có tội nào ác bằng đố kỵ với trí tuệ, tánh tốt và hành động thiện của
người khác”,
chúng ta sẽ ý thức hơn về hành vi của mình. Ý thức được thì làm chủ được. Dù có
bực bội bao nhiêu, Bồ-tát cũng không để sự ganh ghét bộc ra ngoài một cách thô
thiển như thế. Chúng sinh, bản chất của họ là phân biệt. Vì thế dù thiếu trí
tuệ cỡ nào, họ cũng nhận ra những hành vi như thế của Bồ-tát. Chúng sinh thì
không đủ năng lực để giữ mồm giữ miệng được lâu dài. Ảnh hưởng đến việc giáo
hóa sau này không ít.
Khởi tâm ganh ghét
không chỉ làm cản trở Bồ-tát đạo mà còn phải nhận những quả báo không hay. Đề
Bà Đạt Đa, việc phá Phật rành rành, nhưng khởi tâm khen chê còn đọa tam đồ,
huống là Bồ-tát mà đối với chúng sinh lại để tâm ganh ghét làm chủ? Vì thế dù
với bất cứ lý do nào, khởi tâm đố kỵ đều lỗi, nên không để tâm đố kỵ với phước
báu và trí tuệ của người là một trong các hoằng thệ của Phu nhân.
(còn tiếp)