Thử bàn về vấn đề chân ngụy trong tác phẩm Lý hoặc luận

thu ban

Thích nữ Thanh Toàn

 

Tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử ra đời vào năm 198 tại Giao Châu, mãi đến khi các học giả nghiên cứu về sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam thì tác phẩm mới được xem như là một dữ liệu quý báu để cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề này. Thế nhưng, từ lúc học giả Hồ Nguyên Thụy1 trong Thiếu Thất sơn phòng bút tòng 32, đặt vấn đề ‘chính - ngụy’ cho tác phẩm thì kế tiếp lại có thêm các nhà nghiên cứu như Lương Khải Siêu1, Tokiwa Daijō2, và Matsumoto Bunzaro3, ... cũng quan tâm đến. Ở đây, người viết xin kế thừa những nghiên cứu trước, đặc biệt là của GS. Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về Mâu Tử để bàn về vấn đề này. Có ba quan điểm chúng ta cần quan tâm.

* Thứ nhất: Lý hoặc luận được cho là một tác phẩm ngụy tạo thời Đông Tấn và Lưu Tống. Đại diện cho quan điểm này là các nhà nghiên cứu như: Hồ Nguyên Thụy trong Thiếu Thất sơn phòng bút tòng 32, Lương Khải Siêu với Mâu Tử lý hoặc luận biện ngụy, Tokiwa Daijō trong Kanmin guhosetsu no kenkyu, Matsumoto Bunzaro trong Mushiriwaku ron no chosakunendai ko...

* Thứ hai: Lý hoặc luận là một tác phẩm ra đời vào hậu bán thế kỷ thứ III. Đại diện cho quan điểm này là: Fukui Kojun4 nói đến trong Dokyõ no kishõ teki kenkyu, H. Maspéro5 trong Le songe et I’ ambassade de I’ Empereur Ming và E. Zürcher6 trong The Buddhist Conquest of China...

* Thứ ba: Lý hoặc luận là một tác phẩm ra đời vào thời Hán mạt. Đại diện của quan điểm này có: Pelliot7, Chu Thúc Ca8 trong Lương nhiệm công Mâu Tử biện ngụy chi thương xác, Hồ Thích9 trong Dự Chu Thúc Ca luận Mâu Tử thơ, và Dư Gia Tích10 trong Mâu Tử lý hoặc luận kiểm thảo, trong Dư Gia Tích luận học tạp trước I.

Nghiên cứu của GS. Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1 (2000) hay Nguyễn Tài Thư trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1991) cũng đưa ra nhận định tác phẩm này được viết vào những năm cuối thế kỷ II. Đặc biệt, GS. Lê Mạnh Thát đã có những công trình nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này với những dẫn chứng cụ thể11 để đi đến kết luận niên đại xuất hiện của tác phẩm phải rơi vào những năm cuối thế kỷ thứ II sdl, mà cụ thể là năm 198. Người viết đồng ý với quan điểm này khi xét nơi phần tự truyện. Sau đây chúng ta sẽ giải đáp những nghi vấn thắc mắc:

Thứ nhất: Lương Khải Siêu cho rằng: Hoằng minh tập đề Mâu Dung đời Hán soạn, phụ thêm là Thái thú Thương Ngô Mâu Tử Bác truyện, nhưng Dung tên tự là Tử Ưu, chứ không phải là Tử Bác. Vậy nên, Mâu Dung mà Khải Siêu nói tới là sống vào thời vua Hán Chương Đế (trị vì từ năm 75 - 88), trong khi đó theo tự truyện thì Mâu Tử sống vào thời Hán Linh Đế. Thứ hai: Vấn đề Mâu Tử là “người bình nhân và Mâu Tử thái thú” cũng gây nên thắc mắc. Ta có thể hiểu câu Thương Ngô thái thú Mâu Tử Bác truyện” nghĩa là truyện Mâu Tử Bác do thái thú Thương Ngô viết” và tác giả cũng không phải là Mâu Tử làm thái thú. Đây chính là câu giải đáp cho nghi vấn thứ hai của Lương Khải Siêu là “Bậc hiền tài không thể có bút pháp đó”. Cuối cùng, Hán Ngụy đều cấm ngưi Hán xuất gia nên thời Linh đế và Hiến đế không có ngưi Trung Quốc làm Sa-môn. Vậy mà trong điều thứ 16, Mâu Tử nói tình trạng Sa-môn rất nhiều và phát sinh những tệ nạn. Chúng ta có thể lý giải vấn đề này như sau:

Thứ nhất: Thời Hán có Nghiêm Phật Điều xuất gia làm Sa-môn. Trong Hậu Hán thư 103 tờ 11a-12 ghi: Trức Dung dựng chùa thờ Phật rất lớn” có thể chứa hơn 3.000 người vào ngày lễ tắm Phật, người đến xem và ăn lên đến hàng vạn người.12 Mặc khác, Sở Vương Lưu Anh thời Hán mạt hay Hán Hoàn đế đã thờ cúng Phật ở trong cung của mình13. Như vậy, có chùa to Phật lớn thì dĩ nhiên sẽ có Sa-môn tu học và hoằng dương Phật pháp. Thứ hai, việc Sa-môn uống rượu, có vợ con có hai cách lý giải: Một là có thể Phật giáo tại Giao Châu đang thịnh hành, Tăng chúng xuất gia đông, được nhiều người cung kính nên sanh ra tệ nạn, tha hóa của các cá nhân. Thứ hai, do thời ấy giới luật chưa được truyền vào nên các Tăng sĩ có đời sống sai lệch. Trong điều thứ 5 của tác phẩm, Mâu Tử đã nói kinh Phật “quyển số kể tới hàng vạn” chứng tỏ Phật giáo đã truyền bá rộng rãi vào thời kỳ đó. Thứ tư, vấn đề chính trị giữa nhà Hán và nước Vu Điền: hai nước này cấm tuyệt không giao lưu. Vậy tại sao nhân vật trong tác phẩm lại nói việc “thường đi chơi ở Vu Điền” (điều 35). Chúng ta xác nhận chính trị giữa hai nước không tốt đẹp, nghĩa là những việc liên quan đến chính trị thì cấm tuyệt như: giao lưu, triều cống, v.v.. còn người dân của hai nước thì vẫn đi lại bình thường. Vì vậy, đây không phải là lý do để kết luận tác phẩm này không phải ra đời vào thời Hán.

Tokiwa Daijō cho rằng tác phẩm có nhiều điểm giống với Bác di hluận của Huệ Thông đời Lưu Tống, vậy nó là một ngụy tác do Huệ Thông viết. Điều này đã bị Fukui Kojun phê phán và ông đưa ra một số chứng cớ mà GS.Mạnh Thát chỉ ra như sau14.

Thứ nht, việc giống nhau một số câu, chữ giữa các tác phẩm không phải là hiếm thấy trong lịch sử văn học Trung Quốc. Cho nên, không thể dựa vào sự tương tự văn cú giữa Lý hoặc luậnBác di hạ luận để kết luận Lý hoặc luận là do Huệ Thông viết. Thứ hai, Lục Trừng (425-494) nổi tiếng là thưở nhỏ hiếu học, bác lãm, không gì mà không biết, đời gọi là thạc học. Cho nên, ngụy thơ, ngụy tác không thể qua mắt Lục Trừng một cách dễ dàng và còn khó khăn hơn khi việc ngụy tác ấy lại là của một người đồng thời có quen biết chút ít với Lục Trừng là ngài Huệ Thông. Mặt khác, căn cứ sự nghiệp trước tác và quan hệ xã hội, Huệ Thông là một nhân vật tầm cỡ của Phật giáo Kiến Nghiệp. Cho nên, không dễ dàng để viết một tác phẩm rồi lại gắn tên cho người khác và điều này thực khó mà thực hiện ở chùa Trị Thành, vì đây là nơi của Tăng chủ Tăng Cẩn, Tăng Nhã, một nguời bạn thâm giao của Lục Trừng sinh sống. Cuối cùng, thuyết cho rằng Huệ Thông ngụy tạo Lý hoặc luận của Tokiwa là một kết luận không có sức thuyết phục.

Về nghi vấn của Matsumoto Bunzaro đưa ra ba chứng cớ mới để khẳng định Lý hoặc luận ra đời trong khoảng 20 năm từ niên hiệu Nguyên Huy thứ 2 (474) đời Tống đến cuối niên hiệu Vĩnh Minh (493) nhà Tề, vì vậy ông cho đây là một ngụy tạo.

Thứ nhất: Lý hoặc luận điều 1 khi trình bày sự tích Đức Phật, đã nói Ngài mất vào ngày 15 tháng 2 xuất phát từ kinh Đại bát Niết-bàn của Phật giáo Đại thừa, mà kinh này thì do ngài Pháp Hiển dịch khoảng năm Nghĩa Hy thứ 14 (418) đời Đông Tấn. Do vậy tác phẩm phải xuất hiện sau năm 418 đời Đông Tấn. Fukui đã vạch ra truyền thuyết về ngày nhập diệt của Đức Phật vào 15 tháng 2 không nhất thiết là của Phật giáo Đại thừa, mà còn của Phật giáo Tiểu thừa. Cụ thể là Thiện-kiến-luật---sa của Buddhaghosa ghi: Rạng đông ngày 15 tháng 2 (Ngài) nhập vô dư Niết-bàn. Không những thế, trước Pháp Hiển, theo Khai nguyên Thích giáo lục có 4 bản dịch liên hệ đến việc nhập diệt của Đức Phật, đó là Hồ-bát-nê-hoàn kinh 2 quyển của Chi Lâu Ca Sấm, Đại bát Niết-bàn kinh 2 quyển của An Pháp Hiền, Đại bát nê hoàn kinh 2 quyển của Chi Khiêm, và Phương đng bát nê hoàn kinh 2 quyển của Pháp Hộ. Như vậy, vào thời Mâu Tử chắc hẳn đã có bản Hồ bát nê hoàn kinh của Chi Lâu Ca Sm đang lưu hành và có thể Mâu Tử đã được đọc qua. Do vậy, lấy ngày 15 tháng 2 làm chứng cớ để đẩy Lý hoặc luận xuống niên đại của Pháp Hiển là không có căn cứ. Thứ hai, Matsumoto Bunzaro thắc mắc chức “Thông sự xá nhân” là chức quan có vào thời Đông Tấn. Thực sự, chức vụ này chỉ tìm thấy duy nhất trong bản Lịch đại pháp bảo ký tại Đôn Hoàng, còn các bản khác và ngay bản chúng ta đang học cũng không có. Vì vậy, chúng ta không thể dựa trên một bản để đánh giá mà không xem xét các bản khác. Thứ ba, văn cú của Lý hoặc luận đã lén lấy văn cú của Bác di hạ luận của Huệ Thông mà phu diễn nên phải ra đời sau tác phẩm ấy, tức từ những năm 474 đến 493. Việc này đã bàn luận rất rõ ở phần trước khi cho tác phẩm là ngụy tạo của Huệ Thông. Hơn nữa, Pháp luận có mặt trước vào những năm 465 - 469 thì tại sao trong Pháp luận đã có nhắc đến Lý hoặc luận?

Như vậy, qua những cứ liệu trên, chúng ta nhận thấy có ít nhất là ba thuyết nói Lý hoặc luận là một tác phẩm ngụy biện mà chủ yếu là cho rằng nó có từ thời Tấn, Tống. Tuy nhiên, tất cả cứ liệu của họ đưa ra đều không hợp lý. Vì vậy, những nhận xét về tác phẩm này có những điểm bất đồng, có nhiều mâu thuẫn là điều không thể tránh.

Bàn đến quan điểm của Tokiwa Daijō Matsumoto Bunzaro khi họ cho rằng đây là một bản ngụy tạo nếu không thì cũng là ăn cắp văn cú trong Bác di hạ luận của Huệ Thông mà viết ra. Nhưng họ lại bỏ qua một điều mà lẽ ra không nên mắc phải đó là Lục Trừng là người cùng thời với Huệ Thông lại uyên thâm về tất cả các sách, vậy không lý nào lại xếp cho Lục Trừng mang một tội nặng là sao soạn sai lầm như vậy trong tác phẩm Pháp luận của ông?

Các vấn đề liên quan đến tác giả và sự xuất hiện của tác phẩm Lý hoặc luận này đã nhận được rất nhiều sự chú ý và bàn cải, nhưng với nghiên cứu của GS. Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về Mâu Tử thì các vấn đề đã được tường tận. Vì vậy chúng ta có thể kết luận tác phẩm này là do chính Mâu Tử tự Tử Bác sinh vào những năm 160 -170 mất vào khoảng năm 230?, viết vào khoảng năm 198 thế kỷ thứ II. Vậy nên Lý hoặc luận này chắc chắn là chân, chứ không phải là ngụy, tác phẩm này hiện nay có một quyển, với 37 điều, do ngài Tăng Hựu15 soạn, được xếp vào Hoằng minh tập quyển 1 trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh tập 52, số hiệu 2102.

-----------------------***---------------------

1. Hồ Nguyên Thụy, học giả người Trung Quốc, sinh năm 1551, là người đầu tiên đặt vấn đề Mâu Tử là ai và Lý hoặc luận ra đời vào thời nào, dưới đề mục "Tứ bộ chính ngụy" của Thiếu thất sơn phòng bút tòng 32.

2. Lương Khải Siêu, (1873-1929): người huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, tự Trác Như, hiệu Nhiệm Công. Ông là học giả Trung Quốc, nhà tư tưởng và hoạt động chính trị khá nổi tiếng ở Trung Quốc thời cận hiện đại.

2. Tokiwa Daijō (1870-1945): người Nhật Bản, học giả nổi tiếng nghiên cứu Phật giáo Trung Quốc.

3. Matsumoto Bunzaro, (1869-1944), người Nhật Bản, học giả nghiên cứu Phật giáo và triết học Ấn Độ.

4. Fukui Kojun, (1869-1944), học giả nghiên cứu văn hóa tư tưởng, lịch sử Đông Dương.

5. H. Maspéro (1910), nhà ngôn ngữ học người Pháp.

6. E. Zürcher (1972), The Buddhist Conquest of China, Leiden: E. J. Brill, 1972. Tt 13 – 15.

7. P. Pelliot, (1878-1945), nhà Hán học người Pháp, nghiên cứu về Trung Á.

8. Chu Thúc Ca (1930), (1899-1970): học giả có tầm cở trong giới Phật học Trung Quốc vào thời Dân quốc.

9. Hồ Thích (1933), (1891-1962), người huyện Tích Khê, tỉnh An Huy. Ông là nhà tư tưởng nổi tiếng trong và ngoài nước kể từ thời Dân quốc, từng nhận được 35 học vị Tiến sĩ danh dự.

10. Dư Gia Tích (1935), Mâu Tử lý hoặc luận kiểm thảo, Yên kinh học báo XX, 1- 23.

11. Lê Mạnh Thát (2008), Nghiên Cứu Về Mâu Tử, NXB.Văn Hóa Sài Gòn, TP.HCM,  tr.23-60.

12. Lê Mạnh Thát (2008), Nghiên cứu về Mâu Tử, NXB.Văn Hóa Sài Gòn, TP.HCM, tr.63-64

13. Lê Mạnh Thát Thát (2008), Nghiên cứu về Mâu Tử, NXB.Văn Hóa Sài Gòn, TP.HCM, tr. 115

14. Lê Mạnh Thát (2008), Nghiên cứu về Mâu Tử, NXB.Văn Hóa Sài Gòn, TP.HCM, tr.30-33

15. Tăng Hựu (445-518): Cao tăng Trung Quốc vào đời Lương (502-557) thuộc Nam triều, người Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. Sư trụ tại chùa Kiến Sơ, nổi tiếng về Luật học. Lương Vũ đế rất kính trọng.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác