Về một số bài thi tụng nơi sách Cảnh đức Truyền Đăng lục
ve mot so
ĐÀO NGUYÊN
Tác phẩm Cảnh Đức
truyền đăng lục do Thiền sư Đạo Nguyên (Thế kỷ X-XI TL) biên soạn gồm 30
quyển, hoàn thành vào năm Cảnh Đức thứ 1 (1004 TL) đời vua Tống Chân Tông nhà
Triệu Tống (960-1276), và được nhập Tạng (ĐTK/ĐCTT, tập 51, No
2076, 30 quyển). Đây là bộ Thiền sử bề thế, hoàn chỉnh, xuất hiện rất sớm của
Phật giáo Trung Quốc còn truyền đến ngày nay. Nội dung là ghi chép về tiểu sử,
hành trạng của bảy Đức Phật thuộc hiền kiếp, 27 vị Tổ Tây Thiên, 6 Tổ Đông Độ
cùng hành trạng, ngữ cú, cơ duyên nơi Ngũ gia thất phái, bao quát 52 thế hệ gồm
1.661 vị Thiền sư. Điều đáng chú ý là tác giả Đạo Nguyên đã dành trọn 2 quyển
sau cùng (quyển 29, 30) để ghi chép về kệ, tụng, thi, tán, minh, ký, châm, ca
của một số vị Thiền sư tiêu biểu, hàm chứa nhiều giá trị về Thiền học, Văn học
có ảnh hưởng đáng kể đối với nhiều thế hệ Thiền sư tiếp sau.
Ở đây, căn cứ theo bản Việt dịch của Lý Việt Dũng(1),
chúng tôi xin nêu dẫn một số bài thi, tụng, tán… nơi quyển 29 cùng ghi nhận về
những liên hệ của chúng.
A- Hai bài tán, tụng của Hòa thượng Chí Công:
* Hòa thượng Chí Công (418-514): Là bậc Cao tăng thạc
đức của Phật giáo Trung Hoa thời Nam triều: Nhà Lưu Tống (420-478) – nhà Lương
(502-557), còn gọi là Bảo Chí, đời xưng là Bảo Công, Hòa thượng Chí Công, họ
Chu, người Kim Thành (Nam Trịnh, Thiểm Tây; hoặc Cú Dung, Giang Tô). Tác phẩm
có: Thập tứ khoa tụng: 14 bài. Thập nhị thời tụng: 12 bài, Đại thừa tán: 10 bài. Đều được bảo lưu
nơi sách Cảnh Đức truyền đăng lục,
quyển 29(2).
* Hai bài tán, tụng…:
1- Bài tán về Đại thừa, bài 2:
Vọng thân lâm
kính chiếu hình
Hình dữ vọng thân
bất thù
Đãn dục khứ ảnh
lưu hình
Bất tri thân bản
đồng hư
Thân bản dữ ảnh
bất dị
Bất đắc nhất hữu
nhất vô
Nhược dục tồn
nhất xả nhất
Vĩnh dữ chân lý tương
sơ
Cánh nhược ái
Thánh tắng phàm
Sanh tử hải lý
trầm phù
Phiền não nhân
tâm hữu cố
Vô tâm phiền não
hà cư
Bất lao phân biệt
thủ tướng
Tự nhiên đắc đạo
tu du
Mộng thời mộng
trung tạo tác
Giác thời giác
cảnh đô vô
Phiên tư giác
thời dữ mộng
Điên đảo nhị kiến
bất thù
Cải mê thủ giác
cầu lợi
Hà dị phiến mại
thương đồ
Động tĩnh lưỡng
vong thường tịch
Tự nhiên khế hợp
chân như
Nhược ngôn chúng
sanh dị Phật
Điều điều dữ Phật
thường sơ
Phật dữ chúng
sanh bất nhị
Tự nhiên cứu cánh
vô dư.
Dịch:
Thân giả soi gương chiếu ảnh
Ảnh cùng thân giả chẳng khác
Nhưng muốn bỏ ảnh giữ thân
Chẳng hiểu thân vốn cũng không
Thân vốn cùng ảnh không khác
Chẳng thể một có một không
Nếu muốn lấy một bỏ một
Mãi cùng chân lý sai trật.
Như lại yêu Thánh ghét phàm
Trong biển sanh tử chìm nổi
Phiền não nhân tâm mà có
Không tâm phiền não có đâu?
Chẳng nhọc phân biệt nắm tướng
Tự nhiên phút chốc đắc đạo
Lúc mộng trong mộng tạo tác
Tỉnh rồi biết cảnh đều không.
Nghĩ suy lúc tỉnh cùng mộng
Điên đảo nhị kiến không hai
Cải mê nắm giác cầu lợi
Giống như kẻ buôn bán thôi.
Động tĩnh cùng bặt, thường tịch
Tự nhiên khế hợp chân như
Nếu nói chúng sanh khác Phật
Vời vợi cùng Phật cách xa
Phật cùng chúng sanh bất nhị
Tự nhiên cứu cánh vô dư.
(Cảnh Đức truyền đăng
lục, quyển 29, Lý Việt Dũng dịch, NXB.Hồng Đức, 2013, tập 3, tr.652-653)
Ghi nhận:
14 câu đầu của bài tán trên, tức từ câu “Vọng thân lâm
kính chiếu hình” đến câu “Tự nhiên đắc đạo tu du”, Nguyễn Lang, trong sách Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, phần
viết về “Tư Tưởng Thiền của Thiền sư Hương Hải (1628-1715)” đã nêu dẫn, cho là
của Thiền sư Hương Hải, để bàn về nguyên tắc “Không trốn chạy sự vật và không
bỏ phàm theo Thánh, không bỏ mê theo ngộ”. 14 câu được tác giả sách Việt Nam Phật giáo sử luận II nêu dẫn
là:
Vọng thân lâm
kính chiếu ảnh
Ảnh dữ vọng thân
bất thù
Đãn dục khứ ảnh
lưu vọng
Bất tri thân tự
bản (đồng) hư
Thân bản dữ ảnh
bất dị
Bất đắc nhất hữu
nhất vô
Nhược dục tồn
nhất xả nhất
Vĩnh dữ chân lý
tương sơ
Cánh nhược ái
Thánh tắng phàm
Sanh tử hải lý
trầm phù
Phiền não nhân tâm
cố hữu
Vô tâm phiền não
hà cư?
Bất lao phân biệt
thủ tướng
Tự nhiên đắc đạo
tu du.
(Xem: Việt Nam
Phật giáo sử luận tập 2, bản in 1992, tr.170-172)
Tài liệu về Thiền sư Hương Hải (thơ, kệ…) phần lớn được
lấy từ chương Thiền dật trong sách Kiến văn
tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726-1784). Nhưng theo học giả Lê Mạnh Thát thì
“Trong số 40 bài thơ do Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến văn tiểu lục, nói là của Thiền sư Hương Hải, có đến 32 bài là
của các tác giả Trung Quốc đời Tống mà ta có thể tìm lại trong các sách Trung
Quốc hiện còn (Theo ghi chú của Nguyễn Huệ Chi, trong Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2, sđd, tr.166). Như vậy, 14 câu thơ
trên (Có thể là cả toàn bài) không phải là của Thiền sư Hương Hải (1628-1715)
thuộc Lịch sử Phật giáo Việt Nam hậu bán thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, mà là
của Hòa thượng Chí Công (418-514) thuộc Phật giáo Trung Quốc đời Lưu Tống
(420-478), đời Lương (502-557).
2- Bài Tụng Mê Ngộ Bất nhị (Bài thứ 14):
Mê thời dĩ không
vi sắc
Ngộ tắc dĩ sắc vi
không
Mê ngộ bản vô sai
biệt
Sắc không cứu
cánh hoàn đồng
Ngu nhân hoán Nam
tác Bắc
Trí giả đạt vô
Tây Đông
Dục mịch Như Lai
diệu lý
Thường tại nhất
niệm chi trung
Dương diệm bản
phi kỳ thủy
Hát lộc cuồng sấn
thông thông
Tự thân hư giả
bất thật
Tương không cánh
dục mịch không
Thế nhân mê đảo
chí thậm
Như khuyển phệ
lôi công công.
Dịch:
Mê ngộ không hai
Lúc mê cho không là sắc
Ngộ thì rõ sắc là không
Mê ngộ vốn chẳng sai khác
Sắc không rốt ráo là đồng
Kẻ ngu gọi Nam là Bắc
Người trí đạt không Tây Đông
Muốn tìm diệu lý Như Lai
Thường tại bên trong một niệm
Dợn nắng vốn không phải nước
Nai khát chạy tràn lung tung
Tự thân hư giả chẳng thật
Đem không để lại tìm không
Người đời mê muội quá đỗi
Như chó sủa sấm gâu gâu!
(Lý Việt Dũng dịch, Sđd, tr.688-689)
Ghi nhận:
14 thứ pháp bất nhị mà tác giả nêu tụng (14 bài) là:
- Bồ-đề - Phiền não bất nhị.
- Trí – phàm bất nhị.
- Phật dữ chúng sanh bất nhị.
- Sự lý bất nhị.
- Tịnh loạn bất nhị.
- Thiện ác bất nhị.
- Sắc không bất nhị.
- Sanh Tử bất nhị.
- Đoạn trừ bất nhị.
- Chân tục bất nhị.
- Giải (cởi) phược (buộc) bất nhị.
- Cảnh – chiếu bất nhị.
- Vận dụng vô ngại.
- Mê ngộ bất nhị.
Đề tài Bất nhị ở đây đã được Tuệ Trung Thượng Sĩ
(1230-1291) ở Việt Nam vận dụng, như các bài thi tụng Phàm Thánh bất nhị, Mê ngộ
bất dị. Riêng bài Mê ngộ bất dị
thì chịu ảnh hưởng bài tụng Mê Ngộ bất
nhị nêu trên (xem phần thi tụng của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong sách Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Lý Việt
Dũng dịch giải, NXB.Mũi Cà Mau, 2003, tr.317-330).
B- Hai bài thơ của Thiền sư Đồng An Thường Sát (đời
Đường)
* Chưa tra cứu được tiểu sử cùng hành trạng của Thiền
sư Đồng An Thường Sát, chỉ biết Thiền sư là người đời Đường, tác giả sách Thập huyền đàm, được bảo lưu ở Cảnh Đức truyền đăng lục (quyển 29) Liễu đăng hội yếu quyển 30 (Phật Quang
ĐTĐ, tr.417C, 5764A).
* 2 Bài Thơ:
1- Trần dị (bài
số 4 trong số 10 bài của tập Thập huyền đàm)
Trọc giả tự trọc
thanh giả thanh
Bồ-đề phiền não
đẳng không bình
Thùy ngôn biện
bích vô nhân tý
Ngã đạo ly châu
đáo xứ tinh
Vạn pháp mẫn thời
toàn thể hiện
Tam thừa phân xứ
giả an danh
Trượng phu tự hữu
xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai
hành xứ hành.
Dịch:
Trần dị
Kẻ đục tự đục trong tự trong
Bồ-đề phiền não như nhau chăng
Ai bảo ngọc hòa không người gọt
Ta nói châu ly luôn long lanh
Muôn vật bặt rồi toàn thể hiện
Ba thừa phân xứ giả an danh
Trượng phu tự có xung thiên chí
Chớ giẫm Như Lai dấu bước hành.
(Lý Việt Dũng dịch, Sđd, tr.729)
Ghi nhận:
-
Phật Quang ĐTĐ (tr.5764A) đã giải thích về nhan đề Trần dị của bài thơ như sau: Là nhằm
giải thích làm rõ về người người vốn có đủ Phật Tâm Ấn, nên tuy đi vào trong
trần tục nhưng đều không bị trở ngại, đều thản nhiên, bình đẳng. Do Phật Tâm Ấn
vốn khác với (dị) bụi bặm của thế gian, nên xứng là Trần dị.
-
Hai câu cuối ở bài thơ trên (Trượng phu tự hữu xung
thiên chí, Mạc hướng Như Lai hành xứ hành) của Thiền sư Đồng An Thường Sát (Đời
Đường) có thể đã là xuất xứ của 2 câu kệ sau nơi bài kệ Thị tịch nổi tiếng của Thiền sư Quảng Nghiêm (1122-1190) đời Lý,
Việt Nam:
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
(Theo Thơ Văn Lý-Trần I,
1977, tr.521)
Nói rõ hơn: Tức Thiền sư
Quảng Nghiêm (thế kỷ XII TL) có thể đã tham khảo từ 2 câu thơ cuối nơi bài thơ Trần dị của Thiền sư Đồng An Thường Sát,
đời Đường, Trung Quốc, để viết thành 2 câu sau trong bài kệ Thị tịch của mình. Nên biết Trần dị là một trong số 10 bài thi tụng nơi
tập Thập huyền đàm của Thiền sư Đồng
An Thường Sát đã được bảo lưu nơi sách Cảnh
Đức truyền đăng lục (quyển 29). Như thế thì tư tưởng: Chớ giẫm Như Lai dấu
bước hành” (Hàm nghĩa là phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, không giẫm theo dấu
chân của người đi trước) đã được giới Thiền sư Trung Hoa nêu ra từ thế kỷ VIII,
IX TL. Và Thiền sư Quảng Nghiêm (thế kỷ XII TL) của Việt Nam đã phỏng theo đấy
để viết thành 2 câu sau nơi bài kệ Thị tịch,
nhằm bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề tu tập, ngộ đạo.
Bài kệ Thị tịch của Thiền sư Quảng Nghiêm với 2
câu sau như thế, một thời đã bị một số nhà nghiên cứu (ở Việt Nam) lãnh hội
không đúng, đã gán cho Thiền sư tư tưởng: “Chống đối Như Lai, không đi theo
đường đi của Phật!”. Chúng tôi đã nêu thuật đầy đủ cùng góp phần biện chính
trong bài viết “Góp phần bảo vệ và phát huy di sản văn hóa thời Lý”. Tham luận
tham dự hội thảo Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long Hà Nội. In trong kỷ
yếu Hội thảo khoa học Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long Hà Nội.
29-7-2010. Tr.471-496.
Ở trên chúng tôi viết
“Có thể đã là xuất xứ…”, “Có thể đã tham khảo…” là có lý do. Tức theo nhà
nghiên cứu Lý Việt Dũng thì nơi tác phẩm Ngũ
đăng hội nguyên, quyển thứ 12 đã chép: Thiền sư Khả Chân (?-1064) đời Triệu
Tống, có lần thượng đường nói pháp xong, thì đưa cây gậy lên, bảo: (lược)… Rồi
hét lên một tiếng nói: Kẻ Đại trượng phu tự có chí hướng xung thiên, không nên
bước theo con đường Như Lai đã bước”. (Thượng đường thuyết trược, toại niêm trụ
trượng viết… Nãi hát nhất hát viết: Trượng phu tự hữu xung thiên chí, Mạc hướng
Như Lai hành xứ hành.” (Xem: Tuệ Trung
Thượng sĩ ngữ lục dịch giải, NXB.Mũi Cà Mau, 2003, tr.460-461).
Như vậy, cũng có thể
Thiền sư Quảng Nghiêm đã tham khảo từ sách Ngũ
đăng hội nguyên (do Thiền sư Phổ Tế đời Nam Tống biên soạn) để có được 2 câu
sau nơi bài kệ Thị tịch của mình.
2- Chánh vị tiền (bài 8
trong số 10 bài của Tập thập huyền đàm)
Khô mộc nham tiền sai lộ đa
Hành nhân đáo thử tận tha đà
Lộ tư lập tuyết phi đồng sắc
Minh nguyệt lô hoa bất tự tha.
Liễu liễu, liễu thời vô sở liễu
Huyền huyền, huyền xứ diệc tu ha
Ân cần vi xướng huyền trung khúc
Không lý thiềm quang toát đắc ma.
Dịch:
Trước núi cây khô đường
sai đa
Người tìm đến đó trọn
tha đà
Cò đi trên tuyết không
cùng sắc
Trăng sáng hoa lau thật
khác xa.
Hiểu hiểu, hiểu rồi
thành chẳng hiểu
Huyền huyền, huyền ấy
phải bị la
Ân cần xướng rõ huyền
trung khúc
Trăng tỏ trên không chộp
được a?
(Lý Việt Dũng dịch, Sđd,
tr.733)
Ghi nhận:
Bài thi tụng này, Lê Quý
Đôn (1726-1784) trong sách Kiến văn tiểu lục
(chương Thiền dật) đã chép cho là của Thiền sư Hương Hải (1628-1715), nhưng
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận
II (Sđd, tr.165) đã cho không phải của Thiền sư Hương Hải, mà là của “Thiền
sư Thanh Nguyên Hành Tư (660-740), Trung Hoa, đó là một trong 10 bài Thập huyền luận, gọi là Chánh vị tiên”.
Như sách Cảnh Đức truyền đăng lục đã ghi chép,
bài thơ Chánh vị tiền nêu trên là bài
thứ 8 trong số 10 bài nơi tập Thập huyền đàm
(chứ không phải là Thập huyền luận) của Thiền sư Đồng An Thường Sát, chứ không
phải của Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư, như Nguyễn Lang đã ghi.
Đ.N
(1)
Xem: Cảnh Đức truyền
đăng lục, Lý Việt Dũng dịch, NXB.Hồng Đức, 2013, trọn bộ 3 tập.
(2)
Về hành trạng thuộc loại kỳ dị của Hòa thượng Chí Công
(418-514), có thể xem: Phật Tổ đạo ảnh,
Hòa thượng Hư Vân tăng đính, Cư sĩ Nguyên Huệ Việt dịch, NXB.Phương Đông, 2011,
tr.592-595.