Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo đời Trần
tu tuong
Phật giáo truyền vào Việt Nam
từ rất sớm, khoảng vào thế kỷ II-III trước Tây lịch. Đến
triều đại nhà Trần, Phật giáo thực sự đã đánh dấu
đỉnh cao của sự dung hợp trong văn hóa và đời sống xã hội Việt Nam. Một trong những thành tựu ấy
là đã hình thành nên một Việt Nam độc lập, có đủ sức mạnh để ngăn chặn địch
quân phương Bắc. Đặc biệt, giai đoạn này Phật giáo đời Trần đã hình thành nên một
tông phái mới – Thiền
phái Trúc Lâm, mang màu sắc nhập thế tích cực. “Màu
sắc nhập thế tích cực” ấy chính là: ‘tư tưởng Phật tại tâm’, ‘tư tưởng kiến
tính’, ‘tư tưởng đồng trần’, ‘tư tưởng nhân bản’, được thể hiện rải rác trong
các áng thơ văn, kệ tụng, đối cơ… còn lưu lại của các vị Thiền sư đời Trần.
I. Lời nói đầu
Vào khoảng thế kỷ II-III tr.TL, Phật giáo bắt đầu truyền vào
Việt Nam qua đường bộ và đường biển. Sau khi bám rễ, Phật giáo dần dần đi vào
lòng dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính trị, xã hội, phong tục, văn
hóa, văn học,… và đặc biệt nhất là vào thời kỳ vương triều Trần (1225-1400).
Cùng với tinh thần ‘bi-trí-dũng’ vốn có của Phật giáo, kết hợp với
các tư tưởng nòng cốt ‘tự tính thanh tịnh’, ‘kiến tính thành Phật’, ‘hòa quang
tiếp vật’ trong tác phẩm Pháp bảo đàn
kinh (法寶壇經) của Lục tổ Huệ Năng (慧能/638-713), cho đến các tư tưởng khác
trước đời Trần, Phật giáo đời Trần đã nhận được sự hoan nghênh của đại đa số
dân chúng bản địa. Khi những tư tưởng này dung hòa với truyền thống dân tộc,
thì diện mạo ban đầu của Phật giáo đã có những thay đổi. Hay nói rõ hơn, Phật giáo
lúc này đã không còn là một khái niệm chung chung, mà là một Phật giáo có xác định
định ngữ cụ thể, đó là Phật giáo của đời Trần (Việt Nam). Từ đây, Phật giáo Việt
Nam trở thành một tôn giáo yêu nước thương nòi, đồng hành cùng vận mệnh của tổ
quốc. Trên tinh thần này, Phật giáo đời Trần đã tạo dựng nên bản sắc dân tộc
riêng. Bản sắc riêng, rất riêng ấy được cấu nên từ cơ sở của ‘tư tưởng Phật tại
tâm’, ‘tư tưởng kiến tính’, ‘tư tưởng đồng trần’, ‘tư tưởng nhân bản’- hệ thống
tư tưởng tinh thần nhập thế mà bài viết sẽ cố gắng tổng hợp, trình bày một cách
khái quát nhất.
II. Tư
tưởng Phật tại tâm
Trong hệ thống tư tưởng Phật giáo đời Trần,
chúng ta thường bắt gặp khái niệm về “tâm” (心);
đó là cái tâm vốn có và hằng hiện hữu trong mỗi một chiếc thân người này. Tâm
này bao hàm vạn pháp vô lượng vô biên, tức là chỉ vạn tượng sum la trong cõi trần
gian đều là biểu hiện của cái tâm kiều diễm này. Nó sẵn có tự tính, Phật tính
(và hẳn nhiên cũng hiện hữu luôn cả quỷ tính, ác tính); nhận rõ thị phi mà hồi
đầu, thì lập tức thành Phật. Hạt nhân tư tưởng Phật giáo đời Trần, nhấn mạnh sự
đánh thức, giác tỉnh của bản tâm, tự kiến bản tính, con người không cần phải
tìm cầu Phật bên ngoài tâm, chỉ cần giác ngộ từ tâm này. Tư tưởng tông phái
Trúc Lâm, một mặt chủ trương buông bỏ triệt để các trói buộc giáo điều trong Tam
tạng kinh-luật-luận, như trong Trì giới kiêm nhẫn nhục (持戒兼忍辱), Trần Tung (Tuệ Trung, 1230-1291)
từng nêu: “Trì giới và nhẫn nhục/ Thêm tội
chẳng thêm phúc/ Muốn biết không tội phúc/ Đừng trì giới nhẫn nhục.”; mặt
khác, lại chú trọng giáo lý kinh điển, hình thức như mở đầu trong Yếu minh học thuật (要明學術), Đồng Kiên
Cương (Pháp Loa,
1284-1330) khuyên: “Đối với người học, trước tiên là phải xét
khảo kinh pháp, sau mới tu hành vậy.” Hoặc
trong Kim cương tam muội kinh tự (金剛三昧·序),
Trần Cảnh (Thái Tông, 1218-1277) bộc bạch: “Trẫm lượng đức chủ
trì ngôi báu, rồi trước sau chăn dắt muôn dân. Từng lo vất vả; chẳng ngại sớm
hôm. Tuy một ngày trăm việc; cũng trộm lúc rảnh rang. Chăm việc tiếc giờ. Học càng tăng tiến. Một chữ đinh lo chưa biết đến;
đêm canh hai còn gắng tìm xem. Đã duyệt phần điển Khổng Khâu; lại xét sách kinh
đạo Thích.” Hoặc như Trần Khâm (Nhân Tông,
1258-1308) có lần chiêu đãi Văn Túc Vương Đạo Tái (con của
Trần Quang Khải) tuy ngồi chung mâm nhưng vẫn không ăn mặn: “Món quy cước đỏ thắm/ Món mã yên vàng thơm/
Sơn tăng giữ tịnh giới/ Cùng ngồi không cùng ăn.”
Không chỉ có thế, tư tưởng tông phái này còn phản đổi quan niệm tọa thiền
theo lối cũ, cho rằng bất kỳ lúc nào, ở đâu; dù cho cử chỉ, động tác rất đỗi bình
thường như hành-trú-tọa-ngọa đều có thể đạt đến giải thoát giác ngộ, cụ thể ở trong Phật tâm ca (佛心歌), Trần Tung nói: “Đi cũng thiền/ Ngồi cũng thiền/ Một đóa sen trong lò lửa đỏ rực.” Hoặc
như Tọa thiền luận (坐禪論), Trần Cảnh nói: “Đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là thiền,
không phải chỉ riêng ngồi.” Điều
này đã công kích vào nền tảng khuôn mẫu Thiền học truyền thống, khiến nó thay đổi
pháp môn xưa cũ “diện bích tĩnh tọa” và một vài quan niệm truyền thống trước
đây trong Phật giáo. Xu hướng này có thể đoán định là được bắt đầu từ lời
khuyên nhủ của Trúc Lâm quốc sư đối với Trần Cảnh khi ông muốn giả từ ngôi báu
lên núi tu hành: “Trong núi vốn không có
Phật, Phật ở ngay trong tâm. Tâm lặng lẽ mà hiểu, đó mới chính là chân Phật.
Nay nếu bệ hạ giác ngộ tâm này, thì lập tức thành Phật, không cần khổ công tìm
kiếm bên ngoài.”
Như thế cho thấy, Phật không ở trong chùa chiền, không ở nơi thâm sơn
cùng cốc, càng không phải ở một nơi nào đó xa xôi, mà ở ngay trong tâm của
chúng ta. Trong tâm có Phật, vì vậy chúng ta không còn con đường nào khác ngoài
việc tìm cầu hạnh phúc an lạc ngay trong phiền não này của chúng ta; từ trong
môi trường đời sống trần tục này tìm được Bồ-đề (Bodhi) giác tính. Tư tưởng này cũng
có thể xem là thừa kế và phát triển quan niệm: “Phật pháp là ở thế gian, không rời thế gian mà giác ngộ. Xa rời thế
gian để tìm cầu Bồ-đề (giác ngộ), thì hệt như việc đi tìm sừng thỏ vậy.”; hoặc “Tìm Phật hướng vào tính này, chớ tìm ngoài thân. Tự tính mê tức là
chúng sinh, tự tính giác tức là Phật.” của Lục tổ Huệ Năng. Đủ thấy, các vị Tổ sư đều nhất
trí cho rằng, mục đích sau cùng của bậc giác giả phải là quay về sơ tâm quang
minh thuần chân của mình, mà không phải truy cầu ở thế giới xa xăm nào đó. Lúc
nào hiện hữu “tự tính giác”, thì lúc đó, nơi đó lập tức trở thành Cực lạc tịnh
độ, giống như Trần Khâm có một lần hỏi Trần Tung: “Tôn chỉ tu hành ấy nên tìm ở đâu?”, Trần Tung hồi đáp: “Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy,
không thể đạt từ ai khác.” Hoặc như trong Phật
tâm ca, Trần Tung nói: “Tâm là Phật/ Phật
là tâm.”,
hay như trong Thướng phúc đường tiêu dao Thiền
sư tịnh dẫn (上福堂逍遙禪師并引) cũng nói: “Nên biết
thế gian có vị Phật trong đám người bình thường/ Thì đừng lạ gì đóa sen nở ra
trong lò lửa.” Như vậy có thể thấy
tư tưởng Phật tại tâm ở các vị Thiền sư đời Trần đã thể hiện một cách thống nhất
và xuyên suốt trong quá trình tu tập đạt đến quả vị giải thoát của mình; quan
điểm này trở thành như là một chân lý chắc nịch, như cách khẳng định của Trần
Khâm: “Bụt ở cong nhà/ Chẳng phải tìm xa/
Nhân khuấy bản nên ta tìm bụt/ Đến cốc hay chỉn bụt là ta.”
III. Tư tưởng kiến tính
Tư tưởng cốt lõi của Thiền tông truyền thống Phật giáo là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực
chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.”;
nghĩa là, sự giác ngộ là không lệ thuộc vào các phương tiện chuyển tải văn tự,
kinh điển; chỉ cần thông qua tâm linh trực quán mà kiến tính thành Phật. Ở Việt
Nam, khoảng từ các Thiền sư của tông phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) thì đã không còn thấy việc truyền
y bát, diễn thuyết kinh luận, mà chỉ chú trọng đến trực giác. Mặc dù vậy, nhưng
họ vẫn nghiêng nặng về chủ trương tu tập thiền định, tập trung tư tưởng để mong
đạt được cảnh giới cao nhất. Tuy nhiên, mục đích tu hành của tông phái Vô Ngôn
Thông là đạt được “đốn ngộ”. Tông phái này phủ nhận một cách triệt để thế giới
khách quan, và đồng thời cũng nhấn mạnh công năng trực giác trong quá trình tu
tập. Như trên cho thấy, tông phái Vô Ngôn Thông chịu ảnh hưởng sâu sắc thiền
phái Nam tông Huệ Năng. Đến Phật giáo đời Trần cũng vậy, trên cơ sở tiếp nhận
tư tưởng kiến tính: “Không có dạy bảo chi
hết, chỉ luận kiến tính, không luận thiền định giải thoát.” của
Huệ Năng, các vị Thiền sư đời Trần tiếp tục biểu dương quan điểm “kiến tính”. Dựa
vào kinh nghiệm tu hành của mình, Trần Cảnh cũng cho rằng: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”.
Có điều ông ấy cũng khẳng định tính tất yếu của tiệm giáo (漸教) và đốn giáo (頓教). Trước khi đạt ngộ, ông từng
thổ lộ tâm sự rằng: “Trong khoảng mười mấy
năm, mỗi khi được rảnh việc trẫm lại hội họp các vị tuổi cao đức cả để tham vấn
đạo Thiền. Còn như các kinh điển của đại giáo, thì không kinh nào không nghiên
cứu. Trẫm thường đọc kinh Kim cang, đến câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm’, vừa
gấp sách lại ngâm nga, hốt nhiên tự ngộ”; hoặc như trong bài văn Phổ thuyết sắc thân ông nói: “Như chưa thấu Phật tâm ý tổ; trước hãy nên
trì giới tụng kinh. Đến lúc hay Phật là không tổ là không; thì giới chẳng cần
trì, kinh không cần tụng. Trong ảo sắc cũng là chân sắc; nơi phàm thân cũng thực
pháp thân”. Tương
tự, Đồng Kiên Cương cho
rằng: “Người học Phật, trước tiên cần thấy
tính”,
tuy nhiên cũng khuyên bảo: “Sau khi kiến
tính rồi, thì cần kiên trì tịnh giới”.
Còn Trần Hoảng (Thánh Tông, 1240-1290) thì ngay từ đầu đã thấu
hiểu rằng muốn kiến tính hoặc có thể phát hiện bản lai diện mục của mình, thì cần
phải trải qua giai đoạn tiệm tu, trong Độc
đại tuệ ngữ lục hữu cảm (讀大慧語錄有感) viết:
“Ba mươi năm dùi rùa đập ngói/ Mấy lần
toát mồ hôi vì tham cứu đạo thiền/ Một sớm bỗng thấy hết được khuôn mặt của mẹ/ Thì ra
khuôn mặt ấy chỉ có một nửa.”
Như vậy, nhìn tổng thể, có thể thấy, về phương diện hình thức, việc biểu đạt
của các Thiền sư đời Trần gần như là “không hẹn mà gặp” với những lời nói của
Thiền phái Nam tông Huệ Năng. Như các phiên bản Đàn kinh sau bản Đôn Hoàng, thì ta thấy Trần Cảnh cũng đã đại ngộ từ câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (應無所住而生其心) trong kinh Kim cang (金剛經); tuy nhìn bề ngoài là như thế,
song trong phương thức triển khai tu tập giữa Thiền phái này với các Thiền sư đời
Trần, chúng ta phát hiện giữa hai nhà có chỗ bất đồng. Nếu như Huệ Năng “kiến
tính” chủ yếu là dựa vào phương pháp tu hành “Tam vô” (Vô niệm làm tông, vô tướng
làm thể, và vô trụ làm gốc), nêu cao và khích lệ sự giác ngộ chớp nhoáng, đột
ngột – một phương pháp tu hành khó thực hiện được đối với đại đa số tín chúng, thì
các vị Thiền sư đời Trần lại triển khai lý luận xoay quanh Tam học và Lục độ của
Phật giáo đối với con đường giác ngộ. Khác với Huệ Năng, họ chủ trương phương
pháp tu tập giác ngộ cần nương vào một trình tự nhất định, phải trải qua các bước
giới, định, tuệ; đồng thời cần kết hợp với phương pháp tiệm ngộ và đốn ngộ; các
Thiền sư đời Trần còn đề cập đến đối tượng tu tập không cùng trình độ, căn cơ
như những điều mà Trần Cảnh đã trình bày trong Niệm Phật luận (念佛論), tức là đối tượng cơ bản có
ba: thượng trí, trung trí và hạ trí. Như thế, thiền đời Trần đồng thời nêu cao
nhị giáo, cả tiệm giáo lẫn đốn giáo. Đây chính là cơ sở tạo nên bản sắc độc đáo
trong Phật giáo đời Trần. Ngoài ra, có một điều cứ khiến người viết suy nghĩ
mãi (và cũng đáng được các nhà nghiên cứu quan tâm) là, sự kiện giác ngộ của Trần
Cảnh, trùng khớp với sự kiện giác ngộ của Huệ Năng theo ghi chép trong các phiên
bản Đàn kinh như bản Đại Thừa tự, bản Hưng Thánh tự, bản Đức Dị tự
và bản Tông Bảo.
Phải chăng Trần Cảnh mô phỏng hoặc noi theo trường hợp đặc biệt của Lục Tổ
trong các phiên bản Đàn kinh này? Hay
điều này hoàn toàn là trường hợp trùng hợp ngẫu nhiên? Qua trường hợp hi hữu
này, người viết khẳng định rằng câu kinh “Ưng
vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong kinh Kim
cang đối với
Thiền giả là yếu chỉ tối quan trọng, nếu không vậy sao các bản Đàn kinh vừa nêu trên đều thêm vào/xuất
hiện câu này, thậm chỉ ở bản Đức Dị
có hai lần nhắc đến câu kinh trên? Dù sao chăng nữa, quá trình tu tập giữa hai
nhà, chúng ta dễ dàng nhìn thấy rằng, phương pháp tu chứng của Trần Cảnh và của
Huệ Năng là không hoàn toàn giống nhau. Với Trần Cảnh có thể thấy, giác ngộ phải
là kết quả của quá trình lâu dài tu hành rèn luyện và nghiên cứu kinh điển. Có chăng khoảnh khắc đốn ngộ đặc biệt ấy, theo ông chẳng
qua chỉ là như một giọt nước cuối cùng tràn ly.
IV. Tư tưởng đồng trần
Một trong những đặc
điểm nổi bật trong tư tưởng Phật giáo đời Trần là tư tưởng ‘Hỗn tục hòa quang’
(混俗和光), hoặc gọi cách khác là ‘Hòa quang đồng trần’ (和光同塵). Như Trần Tung từng nói: “Đến xứ cởi trần cứ vui vẻ mà cởi áo/ Không
phải là quên lễ/ Chỉ tùy theo thói tục mà thôi”. Nhưng
không phải vì vậy mà bị nhiễm ô bụi trần ai, giống như Trần Khâm từng khen ngợi
ông rằng: “(Trần Tung) sống giữa lòng đời,
hòa lẫn ánh sáng của mình vào bụi trần, chưa hề có tâm hại người và vật, cho
nên có thể tiếp nối hạt giống Thánh, có thể dìu dắt những kẻ sơ cơ, bất cứ ai đến
học hỏi đều được chỉ bày rõ ràng phần cương yếu của đạo Pháp, khiến họ có chỗ
nương tựa, tính cách phóng khoáng lúc ẩn lúc hiện, không bị ràng buộc, ông
không chấp vào hình thức bên ngoài.”. “Hỗn tục” hay “đồng trần” ở trong
chương 4 Tân dịch Lão Tử độc bản (新譯老子讀本) đại khái chỉ thái độ
ứng xử không khoe khoang, chung sống ôn hòa, không tranh giành với đời; sau này
Phật giáo mượn từ ngữ này miêu tả thái độ dấn thân và hòa mình. Tức là thân thể
này mặc dù hòa đồng với trần thế cát bụi nhưng trái lại không bị nhiễm bởi thế
tục mà là hòa quang tùy tục. Chỗ này chỉ tinh thần Bồ-tát (Bodhisattva) cứu độ quần chúng nhân dân, lấy thân phương tiện giả hợp này,
kết duyên với đại chúng, từng bước dẫn dắt họ quay về chính đạo. Tinh thần này
cũng có thể mượn câu trong tác phẩm Nhạc
dương lâu ký (岳陽樓記) của Phạm Trọng Yêm (989-1052) - nhà văn, tướng lĩnh và là nhà chính trị thời Bắc Tống để diễn
đạt: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc” (先天下之憂而憂,後天下之樂而樂). Nghĩa là, lo lắng thì lo lắng trước thiên hạ, hưởng thụ thì hưởng thụ
sau thiên hạ, đem sức lực của mình cống hiến cho sự phát triển của quốc gia,
dân tộc và xã hội cộng đồng. Nếu như Huệ Năng từng có chủ trương “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian
giác”, từ đó khích lệ hành giả tích cực tham gia vào các hoạt động, công việc
mang tính cá nhân hoặc nội bộ như cày cấy, trồng trọt, cắt cỏ, chẻ củi, giã gạo,
nghiền muối,… thì các Thiền sư Phật giáo đời Trần lại không dừng lại ở
đây. Họ cho rằng, người tu hành ngoài việc thực hành Chánh pháp, tham gia vào
các hoạt động mang tính “nội bộ” ra, thì cần phải sống tùy tục, tùy duyên, theo
cái lý của sự vật, thuận cái lẽ của đời sống mà hành động, tuyệt không rời xa
thực tiễn quốc gia, đặc biệt là những yêu cầu bức thiết đối với công cuộc bảo hộ
tổ quốc và kiến thiết sự nghiệp chung của quốc gia. Tinh thần nhập thế của các Thiền
sư đời Trần, có thể nói như tác giả Trương Văn Chung, đại khái rằng: Tinh thần ấy
là những hành động có mục đích tốt đẹp nhằm vào cả xã hội (mà không chỉ là cá
nhân hoặc là một tốp người nhỏ bé nào), hướng về xã hội công đồng, phục vụ vì
dân tộc. Họ hoàn toàn không chạy trốn, xa lành xã hội trần tục, mà là hòa vào đời
sống xã hội trần tục, cùng cam cộng khổ với vận mệnh của dân tộc, hành động
mang tính tích cực của các vị Thiền sư đời Trần đã có những cống hiến to lớn đối
với sự nghiệp phát triển xã hội. Rõ ràng, các hành động tham gia tích vào các cuộc
vận động xã hội, quốc kế dân sinh, cho đến tham gia bảo vệ tự chủ độc lập dân tộc,
tất cả đều mang hành động có tính chất xã hội tích cực, nó khác hoàn toàn với
những hoạt động cá nhân hoặc trong nội bộ tự viện.
Tư tưởng này thừa nhận tính hợp lý của đời sống thực tiễn trong việc hành đạo,
cho rằng sinh hoạt hiện thực của con người chính là biểu hiện về phương diện “dụng”
của Phật tính, tư tưởng này đồng thời cũng đề cao phương thức sống tùy duyên,
thuận theo đạo tự nhiên, như những điều Trần Tung nói: “Ăn thịt và ăn cỏ, chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó. Như
mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi, có chỗ nào thấy tội phúc đâu”.
Lại nói: “Đói thì ăn cơm chừ tùy ý, mệt
thì ngủ chừ nào có quê hương. Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ, chỗ lặng chừ đốt
hương giải thoát. Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỷ, khát uống no chừ canh tiêu
dao.” Hoặc như Trần Hoảng thì nói: “Tùng
hoàng mà không để rơi cơ hữu vô, vạn pháp rối bời đều không biết. Ăn cơm, đi ngủ
đều tùy ý, ngoài ra không có việc gì khác đáng làm.” Điều
này về sau đã được Trần Khâm Trúc Lâm sơ tổ cũng nói: “Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo, đói thì ăn, mệt thì
ngủ. Trong nhà sẵn của báu đừng tìm đâu khác, đối diện với cảnh mà vô tâm, thì
không cần hỏi Thiền nữa.”
Giống như điều đã thuật, nhìn chung bản chất của
Thiền
đã là hành động và nhập thế như nhiều nhà nghiên cứu Thiền học
giai đoạn này từng nói. Tuy nhiên cái mới của Thiền đời Trần là đối với mọi
lĩnh vực trong đời sống của con người hầu như đều tích cực tham gia, đặc biệt
nhất là xem sinh mệnh của dân tộc như là sinh mệnh của chính mình. Tính tích cực
ở đây, không chỉ hạn định ở trong đời sống bình thường như ngồi thiền, gỏ mỏ, tụng
kinh, gánh nước, bổ củi,… mà là tham gia xã hội một cách chủ động. Vì vậy,
thiền tu trở thành “thiền hoạt” (禪活),
tức bản chất của sinh hoạt là thiền; do thế, mọi hành vi đều có thể gọi là thiền
không chỉ riêng ngồi như Trần Cảnh từng nói, đi cũng thiền, ở cũng thiền, ngồi
cũng thiền, nằm cũng thiền nốt,
thậm chí vì giữ nước dựng nước mà ra trận đánh giặc, cũng là thiền. Cho nên,
hành giả cần phải bắt đầu từ đời sống hàng ngày đi phát hiện thiền cảnh, thủ chứng
Thánh cảnh, thực hiện giác ngộ thành Phật. Điều này khiến cho Phật giáo đời Trần
ngày một gần gũi hơn với thế tục, cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho
Phật giáo đời Trần có thể thịnh hành và lan rộng trong quần chúng nhân dân.
Cũng nói thêm rằng, những hành động tích cực này không những thống nhất được
lòng dân, mà đã lập nên một thời đại huy hoàng của Phật giáo Việt Nam.
V.
Tư tưởng nhân bản
Nếu xem tư tưởng
nhân bản như là một tư trào lấy người (dân) làm gốc, đòi hỏi gìn giữ sinh mệnh,
tự do, bình đẳng của con người, đồng thời, cổ vũ dẫn dắt quần chúng hướng về chính
đạo, viễn ly phiền não, khiến đời sống của con người càng thêm hạnh phúc mỹ
mãn, vậy thì tư tưởng này ở trong các Thiền sư đời Trần, chúng ta có thể dễ
dàng phát hiện là không chỗ nào không có. Xuất phát từ trong triết lý nhân sinh
của Phật giáo, các vị Thiền sư không ngừng hướng về thân phận hữu hạn, mong
manh của con người và cả những sinh vật nhỏ bé, biểu lộ tấm lòng thương xót, đồng
cảm, thao thức... Điều này có thể tìm thấy trong bài văn Phổ thuyết sắc thân (普說色身). Trong
sự cảm thương sự vô thường giả tạm của đời người và những sinh vật bé nhỏ, Trần
Cảnh viết: “Xưa kia má hồng tóc thắm;
ngày nay xương trắng tro tàn. Mây mịt mùng khi mưa lệ chứa chan; trăng hiu hắt
chốn gió sầu lay động. Canh khuya vắng thần sầu quỷ khóc; tháng năm chầy, ngựa
xéo trâu quần. Lửa đóm lập lòe dưới đám cỏ xanh; tiếng trùng nỉ non trên hàng
dương trắng. Bia mộ nửa chìm, phủ đầy rêu biếc; chăn trâu hái củi, dẫm sạt lối
mòn. Dẫu có văn chương nức tiếng, dù cho tài sắc nghiêng thành. Nào ai có khác
chi ai, rốt cuộc đều về một mối.” Là một vị hoàng đế ở trong đời
sống hoàng triều, Trần Cảnh nhìn thấu mặt trái của đồng tiền và sức cám dỗ ghê
rợn của sắc đẹp, danh vọng. Những nhân tố này chính là điều kiện dễ dàng làm
cho nhân cách con người bị tha hóa trụy lạc, là nguyên nhân dẫn đến nước mất
nhà tan, cho nên ông đã viết ra Lục thời
sám hối khóa nghi (六時懺悔科儀) như để cảnh tỉnh bản thân cũng
như khuyên răn mọi người hướng về chính đạo, sống đời sống phạm hạnh, sống phải
có ích cho xã hội. Hoặc như Trần Hoảng, trong bài Vãn Trần Trọng Trưng (輓陳仲徵) cũng thể hiện tinh thần nhân bản
này, đấy là sự tiếc nuối quặn đau của ông đối với ‘lão cự khanh’ (老鉅卿) – một bề tôi kỳ cựu và trung thành của nhà
Nam Tống trước khi vĩnh viễn xa lìa cõi đời này. Hoặc như trong bài thơ Khuê oán (閨怨), Trần Khâm thẩm thấu thân phận
biến hóa vô thường của con người, ông từng san sẻ nỗi lo tâm tình phức tạp thầm
kín của cung nữ: “Ngủ dậy, cuốn mành xem
cánh hồng rụng/ Chim oanh vàng bặt tiếng, oán gió Đông/ Không dưng mặt trời lặn
phía ngoài lầu Tây/ Đầu cành bóng hoa đều hướng về phía Đông.” Hoặc như Lý Đạo Tái (Huyền Quang, 1254-1334),
trong Ai phù lỗ (哀俘虜),
cũng bày tỏ sự đồng cảm, lòng nhân ái của mình đối với một anh tù binh. Ông thấu
hiểu sự đau khổ và nỗi nhớ da diết của tù binh đối với người thân, quê nhà. Chính
vì vậy Đạo Tái đã “Chích máu viết thư muốn
gửi lời”
cho kẻ địch bị bắt tù đày ấy. Không chỉ có thế, lúc nhìn thấy “Một con chim âu trắng bay giữa khoảng nước
trời liền nhau.”, hoặc như chỉ nghe được tiếng dế văng vẳng trong đêm sâu tĩnh mịch, cũng khiến
cho ông khởi lên lòng trắc ẩn
mà tự vấn “Tiếng dế vì ai vẫn rầu rĩ mãi.” Chỉ có đôi tai biết lắng
nghe, trái tim nhân bản mới có thể nghe được những âm thanh côn trùng nhỏ bé như mang nỗi ai oán ấy. Thật ra, tiếng dế trong đêm hôm rầu rĩ hay chính
ông và các Thiền sư đang nghĩ suy về cuộc đời, về thân phận bèo bọt của con người
trong kiếp sống trầm luân lúc bấy giờ?
Tính nhân bản của các vị Thiền sư không chỉ có thế. Điều đặc biệt đáng chú
ý hơn cả là ở chỗ, tư tưởng nhân bản này không chỉ thông qua những văn tự “bất
động” (chỉ có trên giấy bút) để bộc bạch tâm can, biểu lộ hoài cảm thân phận,
sinh khởi cảm thông với tha nhân, mà còn là thực hiện lý tưởng, triển hiện khát
vọng, hoài bão. Họ trực tiếp dũng cảm đứng lên hành động, tự thân “Thường đi chu du khắp các tỉnh thành trong
nước, loại bỏ những ngôi đền thờ quỷ thần không được chính đáng và bố thí đạo
pháp cùng thuốc mèn cho khắp dân gian”,
đồng thời, nhân đó cảm hóa, hướng dẫn con người vào chính đạo cũng như khích lệ
mọi người tích cực tham gia các hoạt động công ích cho xã hội, từ đó kiện toàn
gia đình, xã hội, kiến lập tịnh độ nhân gian. Điều này hiển nhiên không chỉ là
mục đích chính trị, mà còn thể hiện tinh thần ‘bi, trí, dũng’ trong triết lý
nhân sinh Phật giáo. Có lẽ chính vì từ những phương thức sinh hoạt tích cực
này, các Thiền sư đời Trần đã có những cống hiến to lớn đối với xã hội và giáo
hội Phật giáo lúc bấy giờ. Đây chính là một trong những đặc điểm nổi bật của Phật
giáo đời Trần.
VI. Lời kết
Từ những trích dẫn, phân tích và quy nạp mang
tính điển hình trên đây, cho chúng ta một cái nhìn bao quát về tư tưởng chủ đạo
của Phật giáo đời Trần. Hệ tư tưởng ấy là kết quả của sự tiếp nối, kế thừa tinh hoa trước đời Trần
(bao gồm tinh thần ‘bi, trí, dũng’, tư tưởng ‘Đàn kinh’, tư tưởng trước Phật
giáo đời Trần, tinh thần ái quốc) và các yếu tố khác như chính trị, xã hội,… gộp
chung thành tinh thần nhập thế tích cực. Tinh thần này, trên thực tế đã có từ
trong ba tông phái lớn trước đó (Vinitaruci, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường). Tuy
nhiên chỉ đến đời Trần, đặc biệt là sau khi thành lập tông phái Trúc Lâm, tinh
thần nhập thế của Phật giáo đời Trần mới có thể phát huy một cách tích cực nhất,
rõ ràng nhất. Và qua đây cũng có thể thấy được rằng tinh thần này đã làm cho
tông phái Trúc Lâm – đại
diện của Phật giáo đời Trần, đạt đến đỉnh cao của sự phát triển. Đồng thời nó
đã tạo dựng nên một diện mạo và sắc thái rất riêng của một Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
- Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), NXB.
Thuận Hóa – Huế.
- Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý Trần (tập
2), NXB. Khoa học xã hội Hà Nội.
- Nguyễn
Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập
1), NXB. Văn học Hà Nội.
- Thích
Thanh Từ (2008), Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ
lục giảng giải, NXB. Tổng hợp Hồ Chí Minh.
- Á-nam Trần Tuấn Khải dịch
(1971), Tam Tổ hành trạng, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản.
- Trương Văn Chung thực hiện, PGS. Nguyễn Tài Thư hướng dẫn (1996), Tư
tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, Luận án Phó tiến sĩ khoa
học triết học.
- Y
Đằng Anh Tam (2009), Trung Quốc Thiền
tông tư tưởng sử thể hệ, NXB. Trung tâm Văn giáo Pháp Ấn tự Đài Loan.
(伊籐英三,《中國禪宗思想史體系》,臺灣:法印寺文教中心,2009年).
- Lục tổ Huệ Năng Đại sư (2009), Lục tổ Pháp bảo đàn kinh, NXB. Thiền tâm
học uyển, Cao Hùng, Đài Loan.
(六祖惠能大師,《六祖法寶壇經》,高雄:禪心學苑,2009年).
- Dư Bồi Lâm dịch
(1997), Tân dịch Lão Tử độc bản, NXB.
Tam dân Đài Bắc.
(余培林譯,《新譯老子讀本》,臺北市:三民出版社,1997年).
- Hà Chiếu Thanh thực hiện, GS. Dương Huệ Nam hướng dẫn (2003), Tại Bát-nhã dữ Như Lai
tạng chi gian – Tùng “Đàn kinh” chư bản cập tương quan văn hiến thám “Đàn kinh” thuộc tính. Đài
Loan Phụ Nhân Đại học – Trung Quốc văn học nghiên cứu sở Tiến sĩ Luận văn.
(何照清選,指導教授楊惠南,《在般若與如來藏之間——從《壇經》諸本及相關文獻探《壇經》屬性》,輔仁大學中文學研究所博士論文,2003年).