ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMĀLA: Nhiều bài học quý
duc phat
ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMĀLA: Nhiều bài học quý
Liên Trí
Đức Phật độ tướng cướp
Trong cuộc đời hành đạo của Đức Phật, một trong những câu
chuyện sinh động nhất được nhiều người biết đến và một khi đã biết
thì không thể nào quên, đó là chuyện Đức Phật cảm hóa tướng cướp Angulimāla
được ghi lại trong Trung bộ kinh,
số 86 và Trưởng lão Tăng kệ
(Thera.80-câu 866 đến 891). Câu chuyện này kể lại rằng, ở nước Kosala do
vua Pasenadi trị vì, có tên cướp khét tiếng tên Angulimāla, là tay thợ
săn bạo tàn, gặp ai giết nấy, khiến cho dân làng rất lo sợ. Từ khi có
tên cướp này xuất hiện, khắp mọi xóm làng, thành ấp, quốc độ đều
không còn yên ổn nữa. Mỗi lần giết người, nó cắt ngón tay trỏ phải làm
thành vòng hoa mang vào người. Tên sát nhân ghê rợn này giết cho đến
khi nào tràng hoa ấy xâu đủ 1.000 ngón tay như vậy để trả học phí cho
ông thầy dạy.
Một buổi sáng nọ, như thường lệ, Đức Phật đắp
y, mang bát, vào thành Savatthi khất thực. Sau khi khất thực và dùng bữa
xong, Ngài quay trở về và đi trên con đường tên cướp Angulimāla đi mỗi ngày.
Những người đi đường và làm đồng, chăn bò gần đó thấy vậy hết lòng
can ngăn, nhưng Đức Phật vẫn giữ im lặng, tiếp tục đi, không hề lo sợ.
Thấy Đức Phật đang đi một mình, tên cướp Angulimāla liền xuất hiện. Y
mừng lắm và liền khởi tâm giết Ngài. Y chỉ chờ có vậy, vì còn
thiếu một ngón tay nữa thôi là đủ túc số cho vòng hoa làm bằng 1.000
ngón tay trỏ phải từ 1.000 người do chính y ra tay sát hại. Y lấy kiếm
và tấm khiên, đeo cung và tên vào, đi theo sau lưng Đức Phật.
Thế rồi Đức Phật dùng thần thông khiến cho tên cướp
Angulimāla, dầu cho đi với tất cả tốc lực cũng không có thể bắt kịp Ngài đang
đi với tốc lực bình thường. Tên cướp Angulimāla nghĩ: “Lạ thật, trước đây ta có thể đuổi kịp con voi, con ngựa, con
nai và cả chiếc xe đang chạy, mà bây giờ không thể đuổi theo kịp Sa-môn
Cồ Đàm đang đi bình thường”. Tên cướp nói: “Hãy dừng lại, Sa-môn! Hãy dừng lại, Sa-môn!”. Đức Phật khoan
thai đáp: “Ta đã dừng rồi, này Angulimāla!
Và ngươi hãy dừng lại!”. Tên cướp nghĩ Sa-môn Cồ Đàm không bao giờ
nói dối, vậy lời nói này có ý nghĩa gì. Thế là Angulimāla hỏi: “Ông đi mà lại nói ‘Ta đã dừng rồi’, còn
tôi dừng, thì ông nói ‘sao tôi không dừng’ nghĩa là sao?” Đức Phật
giải thích: “Với mọi chúng sanh, Ta bỏ
trượng, kiếm; còn ngươi, không tự kiềm chế, gieo rắc giết chóc và hận
thù, nên ta đã dừng mà ngươi chưa dừng”.
Khi Đức Phật nói những lời
này, Angulimāla đứng lặng yên, trầm tư suy nghĩ. Dường như những lời nói
nhẹ nhàng này đã đánh động tâm thức tên cướp bạo tàn, nên Angulimāla
hạ giọng và từ tốn thưa: “Thưa Ngài, tội
lỗi của tôi thật tày trời. Tôi có thể quay đầu bằng cách nào?” Thấy Angulimāla
đã chuyển tâm ý, ray rứt với việc làm của mình, Đức Phật mở ra một cơ hội
cho người biết quay đầu, bảo sẽ nhận Angulimāla vào Tăng đoàn để có
thể làm mới cuộc đời, từ bỏ các việc tội ác, gột rửa tâm ý trong
sạch, dốc lòng thực hành điều lành. Nghe xong, Angulimāla liền quăng bỏ
kiếm và khí giới xuống vực sâu, đảnh lễ Đức Phật, xin được xuất gia. Từ
đó, tên sát nhân khét tiếng thành Savatthi đã trở thành đệ tử xuất gia của Đức
Phật. Tôn giả Angulimāla tinh tấn thực hành Pháp (Dhamma) dưới sự hướng
dẫn của Đức Phật và chúng Tăng, và chẳng bao lâu, chứng đạt trạng thái
giải thoát hoàn toàn.
Đức Phật sử dụng thần thông
Trường hợp độ tướng cướp Angulimāla là một trong vài trường hợp
hiếm hoi Đức Phật sử dụng thần thông biến hóa. Chính sự phi thường
của Đức Phật bước đầu gây tò mò và rồi có khả năng cảm hóa tướng
cướp bạo tàn này chịu đối thoại với Đức Phật thay vì với bao nhiêu
người trước đó, hễ gặp mặt là tên cướp này liền giết một cách vô
cảm, chặt ngón tay kết thành vòng hoa, rồi tiếp tục đi tìm đối
tượng khác để giết. Với một tên sát nhân máu lạnh như vậy, sử dụng
biến hóa thần thông là điều vô cùng cần thiết và hợp lý.
Thế nhưng, thần thông biến hóa này cũng chỉ được sử dụng rất
hạn chế như một phương tiện để hỗ trợ quá trình cảm hóa, giáo hóa
và giúp người chuyển hóa mà thôi. Mục đích rốt ráo, cứu cánh của Đức
Phật là đưa Angulimāla ra khỏi quỹ đạo sống tội lỗi, tà kiến, mê si
và đặt người này vào con đường thực hành Chánh pháp. Đức Phật đã sử
dụng phương tiện để có thể gởi bức thông điệp có tác dụng đánh động
mạnh mẽ tâm thức của Angulimāla, rằng “Ta đã dừng từ lâu; còn ngươi
thì chưa dừng”. Đức Phật đã thành công trong việc “trước dùng dục câu dắt,
sau dùng trí để nhổ”. Trước Ngài thể hiện thần thông, nhằm thỏa mãn lòng
ham muốn hiếu kỳ của tướng cướp này, sau Ngài dùng tâm từ bi và trí
tuệ để nhiếp phục Angulimāla. Nhìn cả quá trình cảm hóa này, ta thấy
nhờ những lời khai tâm mở trí đầy tâm từ của Đức Phật mà một tướng
cướp khát máu đã trở thành một vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn. Đây là
gì mà không phải giáo hóa thần thông?
Trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sanh với mục đích giúp
người chuyển mê khai ngộ, Đức Phật chỉ chú trọng đến giáo hóa thần
thông, còn biến hóa thần thông và tha tâm thần thông, Ngài cho rằng sẽ
đưa đến nhiều nguy hiểm nếu lạm dụng chúng (Tăng chi bộ kinh, chương Ba pháp, phẩm VI, kinh 60). Học từ
Ngài, để không lạc lối hoặc đi quá xa với Chánh pháp và con đường
hoằng pháp, chúng ta cần phân định rõ ràng đâu là mục đích, đâu là
phương tiện để vững tin trên con đường thực hành và truyền bá Chánh
pháp. Nếu chỉ dừng lại ở việc “dùng dục câu dắt” mà không phát
triển vế “dùng trí để nhổ”, tức là ngầm nhận phương tiện làm mục
đích, thì đây không phải là Chánh pháp của Phật. Những ai thực hành đúng
theo Chánh pháp, thì càng lúc càng bớt tham, bớt ràng buộc, thêm bình
an và hạnh phúc. Ngược lại, một khi lấy phương tiện làm mục đích, ta
sẽ bị tham dục kéo lôi trở về đời sống tầm thường, suốt ngày lăng
xăng với việc không chính đáng và không cần thiết, càng ngày càng xa
mục đích giải thoát. Cho đến khi đi quá xa, giật mình nhìn lại, ta
sẽ không còn cơ hội quay về với Chánh pháp vì sức khỏe, thời gian
và sức lực đã đến hồi cạn kiệt rồi.
Do vậy, tất cả những gì chúng ta làm đều hướng đến quá trình
thực hành và giúp người khác cùng thực hành trên lộ trình chuyển xấu
ác thành thiện lành, đảo điên thành tĩnh lặng, mê mờ thành trí tuệ,
khổ đau thành hạnh phúc mới đúng là thực hành Chánh pháp.
Năng lực của sám hối
Câu nói của Đức Phật với Angulimāla “Ta đã dừng từ lâu mà ngươi chưa dừng; với chúng sanh, Ta đã
dừng sự giết hại, còn ngươi chưa dừng việc gây khổ đau, sát hại chúng
sanh” đã có tác dụng lớn và đưa đến hiệu quả không ngờ:
Angulimāla bắt đầu biết dừng! Tâm hối lỗi, ăn năn tận đáy lòng của
tên cướp máu lạnh được đánh động và sự chuyển biến tâm thức theo
chiều tích cực nhờ vào oai đức của Đức Phật là bài học quý cho
tất cả chúng ta. Angulimāla đã thật sự hoàn lương sau khi được Đức
Phật khai thị và biểu hiện cho thái độ quay đầu này là liền vứt
hết hung khi xuống vực sâu, quỳ xuống đảnh lễ Đức Phật xin sám hối
và xin gia nhập Tăng đoàn, nguyện trọn đời sống phạm hạnh theo Đức
Phật và chúng Tăng.
Angulimāla đã thực hiện trọn vẹn nghĩa cử sám hối đúng nghĩa,
một thái độ tự phê bình rốt ráo. Sám hối theo đúng nghĩa của từ
này – áy náy, hối hận với lỗi lầm đã tạo, răn mình từ nay chừa bỏ
sai phạm tương tự – chỉ thật sự diễn ra trong tâm khi người ấy có sự
thay đổi từ trong nhận thức và tiếp đó là thái độ rồi dần gây ảnh
hưởng đến hành vi để có sự thay đổi triệt để và toàn diện. Việc
này không phải dễ dàng vì những hành động quen theo một hướng nhất
định nào đó sẽ tạo nên một lực quán tính, như lực đẩy chiếc xe lao
về phía trước theo hướng nó đang vận hành. Do vậy, cần một tác động
lớn từ bên ngoài tạo lực cản, cộng với sự nỗ lực lớn từ bên trong
mới có thể làm được việc khó làm này. “Dừng lại” với Angulimāla là
kết quả tuyệt vời của một sự phối hợp giữa nội công và ngoại kích
như thế.
Điều kỳ diệu này đã đến đúng thời để rồi hiện tượng tâm lý
“dừng lại” và “quay đầu” diễn ra khi có sự tác động gây ảnh hưởng
đáng kể đến tâm thức mới có tác dụng làm chuyển hướng của suy nghĩ
và hành vi của Angulimāla. Nếu những hành vi nào đã tạo thành lối
mòn phản ứng và biểu hiện theo một quán tính thì việc thay đổi
hành vi này cực kỳ khó. Trong trường hợp Angulimāla, hành động man rợ
hễ gặp người là giết, cắt lấy ngón trỏ tay phải của nạn nhân, đã
được tên cướp này thực hiện gần một ngàn lần rồi, đã thành một
thói quen hành vi nên vô cùng khó bỏ. Thế nhưng, oai lực của tâm từ
mà Đức Phật gởi đến Angulimāla đã đánh động tâm thức tướng cướp này
ở tầng sâu thẳm nhất. Sự tác động tâm lý sâu sắc ở tầng sâu thẳm
này tạo nên một sức mạnh phi thường, làm chuyển hướng toàn bộ nhận
thức, thái độ và hành vi của Angulimāla.
Tự tin với nỗ lực tâm linh: “quay đầu là bờ”
Ít người có thể tin một người cực ác có thể quay đầu 180 độ
để trở thành người tốt. Angulimāla đã làm được điều này bằng sự quyết
tâm cao độ và nỗ lực tâm linh đáng kính phục. Sự thay đổi triệt để
tận gốc của một người cực ác là điều tưởng chừng không thể. Chính
vua Pasenadi và nhiều người khác cũng không ngờ về sự thay đổi ngoạn
mục trong tâm thức và hành vi của một người có quá khứ vấy máu như
vậy. Khi Đức Phật hỏi vua Pasenadi rằng, nếu thấy Angulimāla cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, từ bỏ sát
sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ nói láo, ăn một ngày một bữa, sống phạm hạnh,
giữ giới, hành trì thiện pháp, thì nhà vua phản ứng thế nào. Vua Pasenadi
nói là sẽ đảnh lễ và cúng dường như bất kỳ vị Tăng nào. Nói là
nói vậy nhưng vua Pasenadi không tin điều này tí nào, nên khi Đức Phật
chỉ một vị Tăng đang hành thiền miên mật và bảo đó là Angulimāla thì
vua Pasenadi hoảng sợ, lông tóc dựng ngược. Đây là phản ứng chung của hầu
hết chúng ta. Khi nghe một trùm giang hồ nào đó trở thành một người
xuất gia tu hành nghiêm túc, ta liền nói “được vậy tôi quỳ lạy, cúng
dường trọn đời luôn đó”. Câu nói này chứa đựng thái độ không tin đó
là sự thật vì nó vượt ngưỡng suy nghĩ và tưởng tượng của chúng ta.
Thế mà Angulimāla đã làm được việc khó tin ấy. Sự nỗ lực và
thành công của Angulimāla từ một tên cướp khét tiếng hung bạo đến một
bậc Thánh tăng đã khơi dậy niềm tự tin của tất cả chúng ta. Quay đầu
là bờ, nếu chúng ta nỗ lực vượt bậc, dùng nội lực làm lực đẩy để
quay 180 độ, ta sẽ thấy bờ, hướng đến bờ và bơi vào bờ. Nếu tự tin
để vượt qua mặc cảm tội lỗi của chính mình, nếu tự tin để vượt qua
sự nghi ngại của người ngoài, ta sẽ biết cách lội ngược dòng một
cách ngoạn mục để về đích. Không bao giờ muộn đối với người biết
hồi đầu hướng thiện. Tướng cướp Angulimāla mà còn có thể quay đầu tu
hành chứng quả thánh, hà huống như chúng ta, những người tuy còn lỗi
lầm, nhưng vẫn chưa ác đến mực tột độ như Angulimāla.
Hơn nữa, ta cũng thay đối thái độ với người khác qua câu chuyện
sống động này. Ta nên có cái nhìn tích cực vào sự nỗ lực và quyết
tâm làm mới của tất cả mọi người.
Ta học từ thực tế sinh động này, tập mở lòng mong chờ và đón nhận
sự đổi thay theo hướng tích cực từ người khác. Người phạm lỗi lầm
không phải là xấu, lỗi lầm mới xấu. Nếu ta quá khắt khe, nhìn người
theo kiểu “chụp hình” – in trong trí một hình ảnh nào đó mà bỏ qua
sự thay đổi, sống động, vận hành liên tục của cuộc sống, trong đó
có sự thay đổi của con người lầm lỗi ấy, là một điều không nên. Vào
thời điểm nào đó, họ mắc sai lầm, bây giờ, có thể họ đã sửa đổi
và tiến bộ rồi thì sao? Ta không nên đóng khuôn nhận thức vào hình
ảnh ta “chụp” được tại một thời điểm nào đó trong quá khứ để rồi
lấy đó làm cơ sở để nhận thức và hành xử trong hiện tại. Thái độ
cố chấp “khắc chu cầu kiếm” không đem lại ích lợi gì cho ai cả. Một
khi thay đổi nhận thức, hành vi theo đó thay đổi theo. Angulimāla làm
được, người khác cũng có thể.
Nghiệp và quả của nghiệp
Angulimāla đã nỗ lực chuyển nghiệp trên phương diện “con người là
chủ nhân của nghiệp” (kinh Tiểu
nghiệp phân biệt, Trung bộ kinh, số 135; Tăng chi bộ kinh, chương V,
phẩm VI, kinh số 57 và nhiều kinh khác). Trên thực tế, nghiệp được
chuyển hay không và chuyển với tốc độ nào, tới mức độ thế nào còn
tùy thuộc vào thái độ và quyết tâm của chúng ta đối với nghiệp của
mình. Angulimāla đã làm được điều tuyệt vời, chuyển đổi toàn bộ đời
sống của bản thân, từ một tên cướp gây khổ đau cùng tột, là nỗi ám
ảnh của nhiều người, đã trở thành một vị Thánh tăng đem lại an vui
hạnh phúc cho bao người. Sự thay đổi triệt để tận căn cội trong tâm
thức của Angulimāla được ghi lại khá kỹ trong Trưởng lão tăng kệ (kệ
số 879 đến kệ số 891) khi Tôn giả Angulimāla trải nghiệm đời sống đầy
ý nghĩa của một vị Thánh đệ tử Phật ngày đêm tinh tấn không phóng
dật, an trú trong chánh niệm, nhiếp phục thân, miệng, ý thanh tịnh,
giải thoát hoàn toàn, đặt gánh nặng sanh tử xuống, chứng nghiệm
hạnh phúc tối thượng. Điều này tạo niềm tin cho chúng ta về sự làm
mới, thay đổi theo hướng tích cực để chuyển nghiệp ác thành nghiệp
thiện, và hẳn nhiên giáo dục đóng một vai trò không nhỏ trong quá
trình chuyển nghiệp này.
Kinh Angulimāla, Trung bộ
kinh, số 86 ghi lại rằng, sống trong hạnh phúc giải thoát, mỗi sáng, Angulimāla
thảnh thơi từng bước chân chánh niệm đi vào thành Savatthi khất thực. Angulimāla
đã trở thành một con người hoàn toàn khác, với nội tâm tĩnh lặng,
chan chứa tình thương yêu. Tuy nhiên, do những lỗi lầm đã gây tạo trước
đó, Ngài vẫn phải chịu phẫn nộ của nhiều người. Có người ném đất,
có người ném đá vào Ngài, có người lấy gậy đánh Ngài vỡ đầu, và khi về đến
tinh xá, Ngài bị lỗ đầu, chảy máu, bình bát bị bể, y áo bị rách. Trong tình
trạng đáng thương này, Đức Phật khuyên dạy Angulimāla rằng, “Hãy kham nhẫn. Ông đang gặt hái ngay trong
hiện tại quả báo của nghiệp mà đáng lẽ ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều
năm, nhiều trăm năm, thậm chí nhiều ngàn năm” (kinh Angulimāla, Trung bộ kinh số 86). Angulimāla hoan hỷ tin nhận
lời Phật dạy và tinh tấn thực hành Pháp, hoan hỷ trả nghiệp xưa mà
không một lời than trách.
Như vậy, bài học về giáo lý nghiệp và nghiệp quả rõ ràng hơn
qua trường hợp của tôn giả Angulimāla. Với nỗ lực cá nhân, quyết từ
bỏ những hành động gây đau khổ cho người, dồn hết thời gian và năng lực
vào việc thực hành Chánh pháp, tinh tấn không phóng dật, Tôn giả
Angulimāla đã chứng quả thánh sau một thời gian xuất gia làm đệ tử
Phật, tự thân trải nghiệm những an lạc, hạnh phúc của đời sống giải
thoát. Tuy nhiên, những nghiệp cũ đã gieo, thương đau đã tạo ra cho bao
gia đình, Tôn giả Angulimāla không thể tránh khỏi sự phẫn nộ từ người thân của những nạn nhân.
Đây là quả báo phải trả, dù đã chứng Thánh quả. Đúng là:
“Không
trên trời, giữa biển,
Không
lánh vào động núi,
Không
chỗ nào trên đời,
Trốn
được quả ác nghiệp”. (Pháp cú 127)
Hiểu được điều này, ta không than oán, trách móc
hoặc đổ thừa trách nhiệm cho người nào hoặc hoàn cảnh nào mà thản
nhiên chấp nhận trong mọi tình huống cuộc sống với tâm nhẫn chịu,
hoan hỷ và tràn đầy yêu thương. Ngẫm cho cùng, nhẫn nhục với nghịch
cảnh và hoan hỷ với những điều không như ý trong cuộc sống là cách
để chúng ta sám hối lỗi lầm đã gây tạo trong quá khứ. Với thái độ
này, chúng ta không lung lay ý chí, vượt qua những thử thách, khó khăn
– vốn là một phần không thể thiếu của cuộc sống – một cách dễ dàng
hơn và tinh tấn không nản lòng trên con đường chuyển hóa tâm thức và thay
đổi hành vi của mình.
Năng lực của tâm từ
Với tâm từ và tâm bi, thương cảm một người vì tà kiến mà đi lạc
vào con đường tội lỗi, Đức Phật dùng thần thông để tiếp cận Angulimāla.
Tiếp đó là những lời giải thích, phân tích chan chứa tình yêu thương
và cảm thông dành cho một người sa chân lạc lối nhưAngulimāla. Chính
sức mạnh của tâm từ bi lay động trái tim kẻ sát nhân có tác dụng như
một lực cản giúp Angulimāla “dừng lại” – dừng hành động sát hại, gây
đau khổ bấy lâu nay. Chính Angulimāla cũng xác nhận, nhiều người có
thể được cảm hóa bằng đao, bằng trượng, nhưng bản thân Angulimāla được
cảm hóa bằng những lời giáo huấn đầy tâm từ của Đức Phật (Trưởng lão tăng kệ, câu số 878). Đúng vậy, sức mạnh đao kiếm,
Angulimāla đã có thừa, cộng thêm với sự tàn bạo, sức mạnh kia được
nhân lên gấp bội, nên sức mạnh của vũ lực không thể nào có khả năng
nhiếp phục tên cướp khét tiếng này. Duy chỉ có tình yêu thương xuất
phát tận đáy lòng của hiểu biết và cảm thông có sức mạnh lớn hơn
bất kỳ loại vũ khí nào. Chính tình yêu thương rộng lớn, uyển chuyển của
Đức Phật đã chảy đến mọi ngõ ngách của tâm hồn và chạm đáy con tim
tưởng chừng khô cứng của tên sát nhân. Khi tâm từ nơi Đức Phật tưới
tẩm trái tim nhiều đau khổ vì mê muội của Angulimāla, mọi sự thay đổi
xảy ra một cách kỳ diệu đến khó ngờ. Với tâm từ, Đức Phật đã thành
tựu giáo hóa thần thông trong việc nhiếp độ Angulimāla.
Đổi đời nhờ gội nhuần trong tâm từ của Đức Phật, Angulimāla đem
trải nghiệm này ứng dụng trong cuộc sống, trải tâm từ đến chúng sanh
đau khổ. Khi bị ném đất, đá, bị đánh bằng gậy gộc đến bị thương
trên đường đi khất thực, Đức Phật dạy Angulimāla “hãy khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh”. Angulimāla thực
hành theo lời Đức Phật dạy, khởi tâm từ đến những người ấy. Dù họ
coi Ngài như kẻ thù, Angulimāla vẫn mong họ không hại người nào, có
duyên gặp Chánh pháp, gần gũi bậc an tịnh nội tâm, sống nhẫn nhục,
nhu hòa và biết thực hành Chánh pháp (Trưởng lão tăng kệ, câu số 874-876).
Một sự kiện nổi bật khác được ghi lại trong kinh rằng, một hôm
trên đường đi khất thực ở Savatthi, Tôn giả Angulimāla thấy một người phụ
nữ đang sanh đẻ, rất nguy kịch và đau đớn. Thấy vậy, Tôn giả khởi tâm từ
thương xót, nghĩ rằng “thật đau khổ
thay các chúng sanh!” nhưng không biết giúp bằng cách nào. Khất thực
xong, Tôn giả Angulimāla trở về tinh xá bạch Phật. Với tư cách một bậc
đạo sư, Ngài liền hướng dẫn Angulimāla cách rải tâm từ để giúp người
phụ nữ đang chịu đựng đau đớn ấy. Kết quả là người phụ nữ ấy sinh nở
an toàn.
Môi trường giáo dục đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển nhân cách một con người. Nhận gì, cho nấy là điều dễ dàng
nhận thấy như là một sản phẩm không thể khác trong quá trình giáo
dục. Một đứa trẻ được nuôi dưỡng trong bạo lực sẽ trở thành người
thích sử dụng bạo lực với kẻ khác. Cũng như vậy, Angulimāla gặp một
người thầy đầy tà kiến nên trở thành tên sát nhân bạo tàn gieo rắc
khổ đau cho bao người trước khi có duyên lành gặp Đức Phật. Từ khi được
Đức Phật cảm hóa bằng tâm từ, và nhất là sau khi vào Tăng đoàn, được
nuôi bằng dưỡng chất tâm từ, Tôn giả Angulimāla đã sống và hành xử với
tâm từ khi kham nhẫn chịu đựng những hành động phẫn nộ từ nhiều người
trên đường đi khất thực.
Năng lực của hồi hướng
Bằng cách rải tâm từ hướng đến người phụ nữ đang đau đớn trong
cơn chuyển dạ, Tôn giả Angulimāla đã giúp được người phụ nữ này mẹ
tròn con vuông, an toàn tính mạng. Kinh kể lại rằng, khi chứng kiến
sự đau đớn và không dễ chịu của người phụ nữ, Angulimāla liền về
trình với Đức Phật mong tìm cách giúp đỡ. Kinh Angulimāla, Trung bộ kinh số 86 diễn tả rằng, Đức Phật bảo
Angulimāla trở lại thành Savatthi gặp người phụ nữ ấy và nói “Này Bà chị, tôi từ khi sanh ra chưa bao giờ
cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, chị được an
toàn, và sanh đẻ được an toàn!” Angulimāla
không đồng ý và cho rằng như vậy là cố ý nói láo, vì Tôn giả đã
cố ý giết hại mạng sống rất nhiều chúng sanh rồi. Khi ấy, Đức Phật dạy,
hãy đến bên người phụ nữ ấy, nói thế này “Này chị, tôi từ khi được Thánh sanh đến nay chưa bao giờ cố ý giết hại
mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, chị được an toàn và sanh đẻ
được an toàn”. Thế là người phụ nữ được an toàn, mẹ tròn con
vuông.
Ngày nay, Phật tử ở các nước theo truyền thống Phật giáo Nam
truyền, phổ biến nhất là ở Sri Lanka, thường đọc tụng lời chúc lành
này của Tôn giả Angulimāla như lời cầu an cho người phụ nữ đang mang
thai, nhất là trong giai đoạn sắp sanh cũng như trong nhiều trường hợp
chúc lành khác. Nguyên văn tiếng Pāli như sau:
Yato'haṃ bhagini ariyāya jātiyā
jāto,
Nābhijānāmi sañcicca pāṇaṃ jīvitā
voropetā,
Tena saccena sotthi te hotu sotthi
gabbhassa.
Lời chúc lành gồm 18 từ này phổ biến trong giới Phật tử các
nước theo Phật giáo Nam truyền như bài chú Đại bi ở các nước theo
Phật giáo Bắc truyền vậy. Phật tử tin rằng với sự thành tâm, lời
chúc lành này là cách chia phước, hồi hướng công đức mình có đến
người khác để năng lượng an lành này được chuyển đến đối tượng mình
muốn.
Công đức tu tập tạo một nguồn năng lượng lớn và nguồn năng
lượng này có thể chia sẻ được. Trong trường hợp của Tôn giả
Angulimāla, năng lượng công đức có được từ khi Angulimāla xuất gia làm
đệ tử Phật, không bao giờ khởi tâm cố ý giết hại mạng sống của
chúng sanh, có một sức mạnh đáng kể và có thể chia cho người khác. Câu
chuyện này cùng với câu chuyện duyên khởi của bài kinh Lòng từ (Kinh tập, I.8) là những
chứng cứ xác quyết năng lực bình an có thể hiến tặng đến người
khác qua cách hồi hướng. Hiệu ứng cho-nhận này tùy thuộc vào năng
lượng tu tập của người cho, tâm thành của người cho và năng lượng tiếp
nhận của đối tượng. Một điều kỳ diệu là năng lượng bình an này
càng cho đi, chủ nhân của nó càng có nhiều hơn. Có vẻ hơi khó hiểu
nếu ta đem việc này so sánh với vật chất, không có thứ gì cho đi mà phần
còn lại nhiều hơn so với lúc chưa cho. Thế nhưng, nếu so sánh với
hạnh phúc thì ta dễ dàng cảm nhận và chấp nhận rằng, năng lượng
bình an, cũng như hạnh phúc, là thứ càng cho đi, càng được nhiều hơn.
Người biết chia sẻ năng lượng bình an là người có tâm từ, mà đã có
tâm từ thì khi đem lại cho người khác năng lượng bình an, lòng người
ấy cảm thấy hạnh phúc và bình an nhiều hơn. Bình an là cái vô tận,
vô biên, đừng sợ thiếu mà không chia sẻ. Hãy chia sẻ với tâm bình
đẳng để bình an và hạnh phúc nhiều hơn.
Chân sư và tà sư: muôn trùng khác biệt
Câu chuyện Angulimāla gợi cho ta ý niệm về tầm quan trọng của
người thầy đối với đệ tử trong quá trình tu tập. Người thầy có vai
trò định hướng, mở mắt cho người học nhận thức về con người và thế
giới. Hơn thế nữa, nhân cách và hành vi của người thầy có khả năng tác
động trực tiếp đến thái độ và hành động của người học trò. Trong
trường hợp của Angulimāla, khi chưa gặp Đức Phật, Angulimāla theo thầy
tà và đường đời lạc lối từ đây. Những hành động sai lầm, tội lỗi
với quyết tâm xâu cho bằng được một tràng hoa làm bằng 1.000 ngón tay
trỏ phải của nạn nhân để làm học phí cho thầy. Angulimāla theo sự
hướng dẫn của người thầy tà và trở thành một tên sát nhân tàn bạo.
Sau đó, nhờ gặp Đức Phật, Angulimāla đã biết quay về con đường chân
chánh, đạo đức, sống ý nghĩa một đời. Đời của tướng cướp khát máu
chuyển hướng từ đây. Duy trì đời sống đạm bạc về nhu cầu, tĩnh lặng
trong tâm thức và giải thoát mọi ràng buộc, chấm dứt mọi nhân xấu
ác đưa đến sanh tử luân hồi là mục đích sống của vị Tôn giả này.
Sự tinh tấn không phóng dật dưới sự che chở, nâng đỡ và hướng dẫn
chan chứa tâm từ của Đức Phật – bậc chân sư bậc nhất trong các bậc
chân sư – đã đưa Angulimāla thành một vị Thánh đệ tử gương mẫu, giải
thoát sanh tử, an lạc hạnh phúc giữa cõi đời. Tôn giả Angulimāla ví
sự “dừng lại” và quay đầu của ngài như trăng ra khỏi mây mù, tỏa
sáng khắp nhân gian (Trưởng lão Tăng
kệ, câu số 871-873; Pháp cú,
kệ số 172, 173 và 382).
Thầy không phải là người tạo ra những bộ óc cho học trò, cũng không phải
là người nhét vào đầu người học một mớ thông tin, kiến thức nào đó một cách
máy móc, mà có vai trò hướng đạo nên cách thầy dạy sẽ định hướng cho
cả một chặng đường dài của cuộc đời nhiều người. Với người học
đạo, vai trò này còn quan trọng hơn nhiều. Với vai trò này, cần lắm
một bậc thầy không những có kiến thức mà còn có đạo đức, không chỉ
có kỹ năng chuyên môn mà còn có cái tâm rộng lớn để có thể thấu
hiểu tâm lý và thâu nhiếp tất cả với lòng cảm thông, tha thứ, kiên
nhẫn và toàn tâm toàn ý hướng đến sự lợi ích, an lạc và hạnh phúc
của học trò. Cái người học cần tiếp thu từ người thầy là kỹ năng
khơi dậy và phát triển tất cả những phẩm cách tốt đẹp tiềm ẩn
trong chính con người mình và nuôi dưỡng nghệ thuật sống bình an và
hạnh phúc trong cuộc đời. Vẫn biết mỗi người phải tự thắp đuốc lên
mà đi (Kinh Đại bát Niết-bàn, số
16 Trường bộ kinh; kinh Tự mình làm hòn đảo, Tương ưng bộ
kinh, tập III, chương I, phẩm V), nhưng ngọn đèn ấy cần được thắp lên
từ lời dạy chân chánh của người thầy chân chánh. Do vậy, có được
một bậc chân sư giúp chúng ta mở mắt, mở tâm trên con đường tu học là
hạnh phúc lớn nhất của người đang bước trên lộ trình tâm linh.