Khảo về Duy thức học với Tâm lý học hiện đại
khao sat
Khảo
về Duy thức học với Tâm lý học hiện đại
Chánh Tấn Tuệ
Tổng
quan về Tâm lý học
Tâm lý học là khoa học khảo cứu về
tâm hồn con người. Tâm hồn, trước hết là những sự kiện tâm lý như đam mê, cảm
xúc, ký ức v.v… Những sự kiện này không phải là những sự kiện cô lập mà là
những sự kiện diễn tiến trong một cơ thể, trong sự tương quan với thân xác của một
con người, và con người ấy đang sinh hoạt trong một tập thể, một xã hội.
Do tâm hồn con người vốn phức tạp
nên trong quá trình tìm hiểu, Tâm lý học đã để lại nhiều trường phái có những
quan điểm khác nhau về đối tượng và về phương pháp tâm lý học.
1/ Tâm lý học cổ điển, còn gọi là Tâm lý học ngôi thứ nhất, quan niệm
rằng tâm lý con người chỉ gồm những sự kiện tâm linh ở bên trong. Để tìm hiểu
những sự kiện “hoàn toàn ở bên trong”, ngành Tâm lý học này vận dụng phương
pháp Tâm lý học ngôi thứ nhất, tức nội quan. Ở đây chủ thể quan sát chính nó,
chủ thể quan sát và người được quan sát là một, nên gọi là ngôi thứ nhất.
2/ Tâm lý học ngôi thứ ba, như trường hợp Tâm cử thuyết của Watson, chủ trương rằng bên trong không có gì cả,
không có sự kiện tâm lý nào ở bên trong cả. Tất cả tâm lý con người chỉ là
những phản ứng, những cử chỉ tức là những yếu tố sinh lý hiện ra bên ngoài. Với
quan điểm như thế, ngành tâm lý học này vận dụng một phương pháp riêng biệt,
gọi là phương pháp Tâm lý học ngôi thứ ba. Ở đây đối tượng được quan sát là
“nó”, một người nào đó.
3/ Tâm lý học ngôi thứ hai, lại quan tâm đặc biệt đến mối tương quan
giữa tâm lý của con người với tha nhân, tương quan giữa tâm lý cá nhân cụ thể
trong hiện tại với dĩ vãng và ước vọng tương lai của chính nó. Theo các nhà tâm
lý học của phái này, phương pháp tâm lý học phải là phương pháp Tâm lý học ngôi
thứ hai. Ở đây, đối tượng được quan sát là “anh”. Tìm hiểu tâm lý của đối tượng
bằng sự cảm thông.
Rút tỉa từ ba ngành Tâm lý học nói
trên, hiện nay phần lớn các nhà tâm lý học cho rằng đối tượng Tâm lý học không
chỉ là những sự kiện tâm lý ở bên trong, cũng không chỉ là những sự kiện tâm lý
ở bên ngoài. Nhiệm vụ của Tâm lý học là tìm hiểu những đặc tính của sự kiện tâm
lý, mối tương quan giữa tâm lý và sinh lý, mối tương quan giữa tâm lý và xã
hội.
Thực
trạng Tâm lý học hiện đại
Quá trình phát triển của Tâm lý học
đã chỉ ra rằng, mỗi ngành trong ba ngành tâm lý học ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai
và ngôi thứ ba đều có những ưu điểm và khuyết điểm riêng. Lạ thay, ưu điểm của
ngành này thường là khuyết điểm của ngành kia và ngược lại. Điều này đã dẫn đến
nhận định sau: Phải chăng để tìm hiểu một cách đầy đủ tâm hồn con người, như
một tinh thần nhập thể và nhập thế, cần thiết phải vận dụng một cách hài hòa cả
ba phương pháp nói trên. Phải chăng sự bổ túc lẫn nhau của ba ngành Tâm lý học
khác nhau sẽ nói lên sự thống nhất sâu xa của tâm lý học. Trên tinh thần ấy,
hiện nay trong Tâm lý học, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, nhiều lý
thuyết có chủ trương khác nhau khi nói về sự tương quan giữa tâm lý và sinh lý,
sự tương quan giữa tâm lý và xã hội, cũng như khi nói về các đặc tính của những
sự kiện tâm lý. Điều này đã dẫn đến việc có nhiều diễn giải khác nhau về ý
nghĩa, bản chất, nguồn gốc, vị trí và vai trò của sự kiện tâm lý.
Sự xuất hiện của Tâm phân học Freud
đã làm cho Tâm lý học vốn đã phức tạp càng thêm phức tạp. Trước Freud, các nhà
tâm lý học thường đồng hóa đời sống tâm linh với đời sống ý thức. Họ nghĩ rằng
các hiện tượng tâm linh đều ý thức. Freud đã chứng minh rằng tâm hồn con người
không chỉ có phần ý thức mà còn có phần vô thức. Phần vô thức này chi phối ý
thức một cách mạnh mẽ sâu sắc. Tâm lý học sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua phần vô
thức này. Đến đây chúng ta có thể nói về thực trạng của Tâm lý học như sau: Tâm
lý học hiện đại đã có sự hiểu biết rộng về tâm hồn con người, những kiến thức
này được vận dụng vào trong nhiều lãnh vực như giáo dục, xã hội, điều trị các
tâm bệnh… Mặc dù đã có được thành tựu to lớn ấy, nhưng trên mặt lý thuyết mà
nói, Tâm lý học vẫn ở trong tình trạng hỗn mang. Tâm lý học vẫn chưa có được
một lý thuyết lý giải một cách nhất quán các hiện tượng tâm lý. Vẫn còn nhiều
hiện tượng tâm lý chưa giải thích được như nguồn gốc của bản năng, nguồn gốc
của các loại tính tình, sự hình thành ngôn ngữ v.v...
Phật
giáo với Tâm lý học hiện đại
Đến đây có một câu hỏi cần được nêu
ra: Có hay không có một lý thuyết Tâm lý học có thể lý giải tất cả mọi hiện
tượng tâm lý một cách nhất quán? Câu trả là có và đã có. Đó chính là môn Duy
thức học trong giáo lý nhà Phật.
Duy thức học là môn học rất rộng,
không chỉ gói gọn trong phạm vi của Tâm lý học. Ở góc độ của Tâm lý học, Duy
thức học có khả năng cung cấp cho chúng ta một cái nhìn nhất quán về mọi hiện
tượng tâm lý. Để vấn đề trở nên đơn giản và dễ hiểu, bài viết này chỉ nêu ra
một số điểm cơ bản của Duy thức học, lấy đó làm căn cứ để chỉ ra những khiếm
khuyết của Tâm lý học hiện đại, giải thích tại sao Tâm lý học vẫn chưa có được
một lý thuyết lý giải mọi hiện tượng tâm lý một cách nhất quán. Việc vận dụng
Duy thức học để có được một cái nhìn nhất quán về các hiện tượng tâm lý sẽ được
trình bày ở các bài viết sau.
Một
số điểm cơ bản của Duy thức học
Tám thức:
Duy thức học phân tích tâm thức con người nói riêng, tâm thức chúng sinh hữu
tình nói chung, thành tám phần, gọi là tám thức. Đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, thức thứ bảy, thức thứ tám. Từ nhãn thức
đến ý thức, gọi là sáu thức ngoài, vì chúng ta dễ dàng nhận ra chúng. Thức thứ
bảy và thức thứ tám hoạt động âm thầm sâu kín khó nhận ra nên gọi là hai thức
trong. Như vậy thức thứ bảy và thức thứ tám tương ứng với phần vô thức của Phân
tâm học. Sự vận hành của các thức đã làm nên các sự kiện tâm lý. Như vậy, muốn
giải thích được các sự kiện tâm lý, chúng ta phải khảo sát cả tám thức.
Trước đây, do đồng hóa đời sống tâm
linh với đời sống ý thức, nên Tâm lý học đồng hóa việc tìm hiểu tâm linh với
việc tìm hiểu ý thức. Hiện nay, dù đã quan tâm đến phần vô thức, nhưng do những
hiểu biết về vô thức còn quá ít, quá đơn giản, nên các nhà tâm lý học vẫn chưa
thấy được một cách đầy đủ vai trò của vô thức trong đời sống tâm linh, dẫn đến
việc cho rằng vô thức và ý thức là hai mặt khác nhau của tâm thức. Đây là một
trong những nhược điểm của Tâm lý học hiện đại. Nếu thấy được đầy đủ vai trò
của vô thức mới có thể thấy được sự hoạt động thống nhất của các thức. Sự hoạt
động thống nhất này chỉ được nhận biết một cách đầy đủ khi phân tích tâm thức con
người thành tám thức, không phải chỉ có hai thức như quan điểm của Tâm lý học
hiện đại.
Lý nhân duyên:
Theo Duy thức học, sự vận hành của tám thức chịu sự chi phối của lý Nhân duyên,
cụ thể là lý Tứ duyên. Như vậy, các sự kiện tâm lý đều chịu sự chi phối của lý
Nhân duyên. Các hiện tượng tâm lý là các hiện tượng nhân duyên.
Nhiều nhà tâm lý học muốn xây dựng
Tâm lý học thành một lý thuyết khoa học đúng nghĩa. Đó là một lý thuyết vừa
được xây dựng trên lý Nhân quả vừa mang tính nhất quán. Nhưng một lý thuyết như
vậy khi vận dụng để lý giải những hiện tượng nhân duyên lại chỉ có một phạm vi
tác dụng hạn chế. Điều này giải thích tại sao các lý thuyết Tâm lý học hiện có,
mỗi lý thuyết đều có những ưu điểm và khuyết điểm riêng. Ưu điểm là khi được
vận dụng trong phạm vi tác dụng của nó, chúng ta có được những lý giải phù hợp
với hiện thực. Khuyết điểm là với những hiện tượng nhân duyên nằm ngoài phạm vi
tác dụng, lý thuyết ấy không giải thích được. Trên tinh thần của lý Nhân quả,
chúng ta chỉ thấy được các lý thuyết tâm lý học sai khác. Với tinh thần của lý
Nhân duyên, tất cả các lý thuyết Tâm lý học hiện có sẽ được thu nhiếp trong một
cái nhìn nhất quán, phân định được phạm vi tác dụng của từng lý thuyết. Chỉ với
lý Nhân duyên, tâm lý học mới có được cái nhìn nhất quán về mọi hiện tượng tâm
lý.
Nghiệp:
Các hiện tượng tâm lý thì luôn thay đổi, tâm thức của con người cũng luôn
chuyển biến, vậy năng lực nào đã làm nên sự vận hành đó của tâm thức? Đối với
Duy thức học, năng lực ấy xuất phát từ nghiệp, nên gọi là nghiệp lực. Có nhiều
loại nghiệp khác nhau nên cũng có nhiều dạng nghiệp lực. Các nghiệp lực ấy tiềm
chứa trong thức thứ tám, chờ khi đủ duyên mới phát động. Việc Freud cho rằng vô
thức khi mới sinh chỉ chứa đựng năng lực tính dục (libido) là chưa đủ. Với cái
nhìn của Duy thức, trong vô thức, lúc mới sinh còn tiềm chứa nhiều loại năng
lực khác nữa. Điều này giải thích tại sao Alfred Adler, Karl Gustav Jung là
những học trò xuất sắc của Freud lại không đồng ý với Freud về nguồn gốc của
năng lực tinh thần. Từ đó đã mở ra những hướng Tâm lý học khác. Dù vậy cả Adler và Jung đều chưa thấy hết các năng lực tinh
thần tiềm ẩn trong vô thức. Chỉ với nghiệp, chúng ta mới thấy được đầy đủ các
loại năng lực khác nhau được tiềm chứa trong vô thức. Nghiệp mới thực sự là
nguồn gốc của năng lực tinh thần.
Các điều vừa trình bày ở trên lý
giải tại sao Tâm lý học hiện đại chưa thể giải thích được mọi hiện tượng tâm
lý, chưa thể có được một lý thuyết tâm lý học có tính nhất quán. Về phần bạn đọc,
các bạn có thể nêu ra các thắc mắc như tại sao là tám thức mà không chỉ là hai
thức? Lý Nhân duyên là gì, làm sao có thể kiểm chứng trong thực tế? Nghiệp là
gì, do đâu mà có, tại sao nó có năng lực chi phối thân tâm của chúng ta? v.v… Các
vấn đề này sẽ được bàn đến trong các bài viết sau.