Tiễn nhà sư Việt Nam trong một bài thơ Đường
tien nha su
Hồ Sĩ Hiệp
Trung Quốc
thời nhà Đường (618-907) kinh tế xã hội phát triển nên việc giao lưu văn hóa với
nước ngoài được mở rộng. Theo Con đường tơ lụa, văn hóa Trung Quốc được tiếp
thu tinh hoa của phương Tây và ngược lại. Các tôn giáo lớn như Nho – Phật – Đạo
có điều kiện hưng thịnh chưa từng có. Mặc dù không phải là nơi phát sinh nhưng
Trung Quốc thời bấy giờ là cái nôi của Phật giáo phương Đông và Tây vực. Thiền viện,
chùa chiền mọc lên khắp nơi, Tăng Ni Phật tử đông đảo, kinh tế phong phú nên
thu hút nhiều Phật tử ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, trong đó có một số Tăng
nhân Việt Nam đến thụ giáo Phật giáo tại nhà Đường. Các nhà thơ đời Đường đều
có những mối thiện cảm chân thành với Tăng nhân các nước lân bang khi họ trở về
nước. Với thể thơ tống biệt, các nhà thơ đời Đường đã sáng tác những thi phẩm để
tiễn đưa bằng hữu, Tăng nhân mà người đời gọi là thơ tống tiễn – một thể loại
thơ độc đáo chiếm tỷ lệ khá lớn trong toàn bộ Đường thi. Ở thể loại thơ này,
đáng chú ý là những bài: “Tống Nhật Bản Tăng kính long quy” của Vi Trang (836?
- 910), “Tống bí thư Triều giám hoàn Nhật Bản tịnh tự” của Vương Duy (710? - 761)”, “Tống Tăng quy Nhật
Bản” của Tiền Khởi (720? – 782?). Thời bấy giờ, các Tăng nhân Nhật Bản, Hàn Quốc
đến Trung Quốc học đạo khá đông, trong khi các Tăng nhân ở các nước Đông Nam Á
đến học đạo ở Trung Quốc rất ít, nên chúng ta cũng ít thấy những bài thơ đề cập
đến Tăng nhân ở các nước Đông Nam Á. May mắn khi đọc lại thơ Đường chúng tôi thấy
có bài thơ nhan đề “Tống Phụng Đình pháp sư quy An Nam” của nhà thơ Dương Cự
Nguyên (? - ?).
Dương Cự
Nguyên sinh và mất năm nào không rõ? Chỉ biết ông là nhà thơ thời Trung Đường.
Ông tự Cảnh Sơn, người huyện Bồ Đông, tỉnh Sơn Tây, thuộc miền Tây bắc của
Trung Quốc ngày nay. Năm Trung Nguyên thứ 6 (tức năm 790) ông đỗ tiến sĩ rồi được
bổ làm Ngu bộ viên ngoại lang, sau đó thăng lên chức Thái thường bác sĩ, rồi lại
thăng tiếp lên Lễ bộ liên ngoại lang. Có lúc ông được đổi làm Thiếu doãn đất Hà
Trung (thuộc huyện Phụng Tường – tỉnh Thiểm Tây), rồi lại vào làm chức Quốc tử
tư nghiệp. Đến đời Thái Hòa năm 831 ông về ở ẩn và sáng tác thơ văn. Tác phẩm của
ông để lại có “Cảnh Sơn thi tập” (thơ) và “Hồng tuyến truyền kỳ” (văn).
Dương Cự
Nguyên có một số bài thơ họa, tặng và tiễn đưa bạn bè với lời lẽ bình dị, tình
cảm chân thành được đời sau truyền tụng. Đó là họa lại bài thơ “Dương liễu” của
Luyện Tú Tài, tặng tướng quân họ Trương, hay “Đưa Đạm công” về chùa Long Đàm ở
núi; hay như bài thơ ông gửi thăm nhà thơ Bạch Cư Dị làm chức Tư Mã ở Giang
Châu “Có bình yên không?”(Giang Châu Tư mã bình an phủ?). Điểm nổi bật trong
thơ tiễn đưa của ông là rất thân tình, sâu sắc. Trong số thơ tống tiễn của
Dương Cự Nguyên có một bài mà chúng tôi chú ý và rất đỗi ngạc nhiên, đó là bài
ông làm để đưa tiễn một nhà sư của nước ta thời xưa từ cõi Giao Châu xa xôi (thời
đó gọi là An Nam) lặn lội đến Trường An – kinh đô của nhà Đường để tu hành.
Nhan đề bài thơ là “Tống Phụng Đình pháp sư An Nam” (Tiễn đưa pháp sư Phụng
Đình trở về An Nam):
Nguyên văn
bài thơ như sau:
Cố hương Nam Việt ngoại
Vạn lý bạch vân phong
Kinh luân từ thiên khứ
Hương hoa nhập hải phùng
Lộ đào thanh phạm triệt
Thân các hóa thành trường
Tâm đáo Trường An mạch
Giao Châu hậu dạ chung.
Dịch nghĩa:
Quê cũ xa xôi ở ngoài đất Nam Việt
Muôn dặm đường gió mây phủ trắng
Với tài kinh luân từ biệt triều đình ra đi
Hoa thơm trôi chảy ra gặp biển khơi
Tiếng cò, tiếng sóng sang sảng làm trong tiếng
tụng kinh
Gác hiên hóa thành lũy trường thành
Tấm lòng nghĩ đến những con đường ở Trường An
Rồi sau đó nước Giao Châu đêm mới gióng chuông.
Hồ Sĩ Hiệp (dịch)
Đây là một
bài thơ “tống biệt” thường thấy trong thơ Đường. Đặc điểm của loại thơ này là
nói lên tình cảm lưu luyến, chia tay giữa người ra đi và người ở lại, có đầy đủ
các yếu tố là không gian, thời gian, địa điểm và con người cụ thể. Hình tượng
phổ biến trong thơ “Tống biệt” đời Đường là rượu nồng, ánh trăng, dòng sông, bến
nước, con đò, buổi chiều tà và ban đêm khuya vắng v.v… Bài thơ của Dương Cự
Nguyên là bài thơ ngũ ngôn bát cú. Nhân vật mà nhà thơ đưa tiễn là Pháp sư
Phùng Đình, người Nam Việt. Chúng tôi không rõ Phùng Đình là ai. Nếu có qúy
danh là Pháp sư Phùng Đình thì phải là nhà sư trước thời Lý – Trần? Còn địa
danh Trường An, Nam Việt và Giao Châu thì rõ ràng. Hai chữ Nam Việt và Giao
Châu xuất hiện trong thơ Đường là một điều hiếm thấy.
Bài thơ mở
đầu bằng hai câu miêu tả Pháp sư Phùng Đình từ nước Nam Việt xa xôi không ngại
đường xa vạn dặm, núi non hiểm trở, mây trôi gió nổi hãi hùng đến với kinh đô
Trường An để thỉnh kinh. Những câu thơ tiếp theo nói lên tài năng và tấm lòng
sùng đạo, thành tâm tu hành của pháp sư trong thời gian ở Trường An. Những con
đường, gác hiên, tiếng cò, tiếng sóng, tiếng chuông chùa và thành lũy kiên cố ở
thành Trường An sẽ in mãi sâu đậm không bao giờ quên đối với một nhà sư Nam Việt.
Hai câu cuối
bài thơ nói lên tình cảm của pháp sư đối với Trường An nơi có những con đường
thành quách và chùa tháp trang nghiêm khi mình đã về đến đất Giao Châu thì đêm
đến nghe tiếng chuông chùa nơi cửa Phật. Ngôn từ bài thơ rất cổ điển và quen
thuộc phổ biến trong thơ Đường như: cố hương, vạn lý, bạch vân hương hoa, hải
phùng, dạ chung. Bài thơ không có danh nhân (tên người) nhưng người đọc thấy hiện
lên hình ảnh của pháp sư Phùng Đình và tác giả.
Cùng là đề
tài thơ tống biệt, chia tay đối với các Sư tăng các nước lân bang thời xưa đến
nhà Đường nhưng các nhà thơ đời Đường đều có nhiều cách diễn tả khác nhau.
Trong bài thơ “Tống Tăng quy Nhật Bản” (Tiễn nhà sư về Nhật Bản) nhà thơ Tiền
Khởi (720 - 782) mở đầu là câu thơ tự hỏi rất tự nhiên đối với một nhà sư đến từ
nước mặt trời mọc: “Thương quốc tùy diên trú, lai đổ nhược mộng hành?” (Ông vì
cơ duyên mà đến ở Trung Quốc, con đường đến đây như đi trong mơ?). Còn trong
thơ đời Thanh lưu truyền bài thơ nói về một nhà sư Hàn Quốc đến Trung Quốc và để
lại cảm tình đặc biệt ở xứ này. Hai câu đầu của bài thơ như sau: “Vạn lý Ô Lâm
hà xứ gia? Điều điều cô tịch nhập Trung Hoa.” (Ô Lâm xa vạn dặm nhà xứ nào? Xa
xôi một mình đến Trung Hoa). Bài thơ của Dương Cự Nguyên tiễn nhà sư Việt Nam
trở về và mở đầu bài thơ bằng hai câu thơ có ý là hoan nghênh và lòng tràn đầy
cảm phục vì các vị Tăng khả kính đã mang đến sự giao lưu thân thiện đối với đất
nước Trung Hoa.
Qua bài thơ
“Tống Phụng Đình pháp sư quy An Nam” của Dương Cự Nguyên có thể coi là một bài
thơ duy nhất có liên quan đến Việt Nam mà cụ thể là nói về một nhà sư nước ta
thời xưa, từ buổi sớm lắm đã đặt chân đến nhà Đường để tầm sư học đạo. Một điều
cũng rất đáng quý nữa là thời bấy giờ có nhà thơ Đường như Dương Cự Nguyên đã
biết đến một nhà sư Việt Nam “với tài kinh luân từ biệt nhà vua ra đi” (kinh luân
từ thiền khứ) đến nơi xa xôi học đạo rồi trở về với quê hương Giao Châu với tiếng
chuông chùa ban đêm thân quen. Cũng như các nhà thơ Vương Duy, Tiền Khởi tỏ
lòng quý mến các nhà sư Nhật Bản, tình cảm mà nhà thơ Dương Cự Nguyên dành cho
nhà sư Phụng Đình của Việt Nam khi rời Trường An, về nước cũng rất chân thành.