Cùng tạo thành mùa xuân
cho nhau
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật
Thưa Đại Chúng,
Hôm nay là ngày mồng hai, tháng giêng, năm
Ất mùi (20 -2 -2015), tại Tịnh Quang Thiền đường Chùa Phước Duyên-Huế,
trước thềm năm mới, trước thềm xuân Di Lặc, tôi thay mặt Hòa thượng Trú
trì và Tăng chúng bổn tự, kính chúc toàn thể Phật tử các giới và các Học
chúng tu học tại bổn tự Phước Duyên, luôn luôn sống trong niềm hỷ lạc và
hào quang của chư Phật.
Và tôi xin chia sẻ Pháp thoại đầu năm đến
Đại chúng với những điều sau đây:
Từ một cây mai
Trước Tàng Kinh Các, chùa Phước Duyên –
Huế, có hai cây mai, năm này nở rất đẹp, lá lộc rất non và xanh tươi mơn
mởn. Mỗi ngày tôi dành mười phút để ngắm nhìn những cây hoa mai ấy và đã
học hỏi từ nó rất nhiều.
Trời vào hạ, lá của mai sạm nắng, nên màu
xanh rất đậm, đến trời vào thu, màu xanh sạm nắng của mai ngã sang màu
vàng nhạt và trời vào đông, mưa rét lạnh, lá của mai vàng hẳn, thỉnh
thoảng đùa với gió đông và từ từ tự rơi xuống nằm yên với đất và cuối
đông thì mai chỉ còn lại thân cây đứng khẳng khiu, trơ trụi. Nhưng khi
tiết vào xuân, cây hoa mai ươm nụ nở hoa và ra lộc non xanh mơn mởn.
Tiết vào đông nhìn cây hoa mai cô quạnh, khẳng khiu bao nhiêu, thì khi
tiết xuân đến, cây hoa mai cho ta thấy sức sống tràn đầy, nụ ươm và nở
hoa vàng rực rỡ, rồi suốt cả mùa xuân, cây hoa mai cho ta lộc non, xanh
tươi mơn mởn trông thật đẹp mắt bấy nhiêu.
Nhìn cây hoa mai qua bốn mùa, cây hoa mai
cho tôi bài học “thủ
tiết” và tôi đã học hạnh “thủ
tiết” từ cây mai. Nhìn cây hoa mai qua bốn mùa, cây hoa mai cho
tôi bài học “ứng xử”
và tôi học hạnh “ứng
xử” từ cây hoa mai. Hạnh của cây hoa mai là hạnh “tùy
duyên mà thủ tiết; thủ tiết mà tùy duyên”. Hoa mai vận hành theo
bốn mùa mà vẫn giữ được cái tinh tiết của mình đúng chỗ, và thể hiện cái
tinh tiết đó đúng lúc. Đó là “cốt
cách và ứng xử của mai”.
Cốt cách và ứng xử ấy, tôi đã học từ nơi
hai cây hoa mai trước Tàng Kinh Các của chùa Phước Duyên – Huế mỗi ngày.
Tôi xem hai cây hoa mai ấy là hai vị Bồ tát của tôi đã dạy cho tôi mỗi
ngày, bằng ngôn ngữ tịch lặng và sống động của “thủ
tiết và ứng xử”, chứ không phải bằng ngôn ngữ quy ước hay công
thức cứng đờ.
Khi cây mai nở hoa đẹp, lá xanh non mơn
mởn, môi trường của mai thanh cao, tôi đã thấy ít ra là sáu chủng loại
xuất hiện và thân thiện với mai. Chú tắt kè; chú sâu; chú bướm; chú ong;
chú chim sẽ; chú mèo. Chú tắt kè nằm hong nắng xuân trên cành lá của cây
mai ngẩng đầu lên cao về phía mặt trời; chú sâu nằm thu mình nơi nhụy
của hoa mai; chú bướm bay tung tăng chạm vào phấn của hoa mai với đôi
cánh vỗ thật nhẹ nhàng; chú ong bay vào, bay ra, bay đi, bay lại rộn
ràng hút nhụy của hoa mai; chú chim sẽ bay qua, bay lại, nhảy nhót reo
hót và bắt những chú sâu trong nhụy mai để ăn một cách thích thú; chú
mèo ngồi dưới gốc mai nhìn lên những chú chim sẽ trên cành mai để chờ có
cơ hội là nhảy đến vồ chụp. Nhiều chủng loại chăm chú rộn ràng với mai
như vậy, nhưng mai thì bất động. Tôi học bài học “bất
động” từ mai, trước những biến động của muôn loài. Nhờ
bất động trước
những xôn xao ấy, nên mai đã tạo ra được một cốt cách cho chính mình và
dáng vẻ, hương vị mùa xuân cho muôn loài. Muôn loài thì hăm hở dáng vẻ
và hương vị của mai, nhưng mai thì bất động trước những biến động rộn
ràng ấy, đó là cốt
cách của mai;
đó là nét thanh cao của mai. Cốt cách và thanh cao ấy, mai phải
kham nhẫn và tinh tấn
luyện tập mỗi ngày qua mùa hạ; mỗi ngày qua mùa thu; và trong
từng ngày lạnh buốt khắc nghiệt qua mùa đông, để khi xuân đến, thì mai
là xuân, của xuân, cho xuân và để cho muôn loài tùy duyên vui hưởng. Tôi
đã học bài học kham
nhẫn và tinh tấn từ mai. Và qua mai, tôi cũng đã nhận ra, tại sao
đức Phật ca ngợi hạnh
kham nhẫn là đạo lý bậc nhất?
Nhờ hạnh kham nhẫn mà
mình có thể thực hiện được những gì mình có thể ước nguyện và nhờ hạnh
tinh tấn mà mình có khả năng biến những ước nguyện của mình trở thành
hiện thực. Nên, với
hạnh kham nhẫn và tinh
tấn, ta có thể tạo ra hương vị xuân cho chính ta và cho cả muôn
loài. Vì vậy, tôi đã thấy hạnh của Bồ tát từ nơi hai cây hoa mai, trước
Tàng Kinh Các của chùa Phước Duyên – Huế mỗi ngày, và mỗi ngày đi qua
trong mùa hạ, mùa thu, mùa đông, mùa xuân tôi đều chắp tay, cúi đầu
trước hạnh của hoa mai.
Nhìn lại tâm ta
Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy: “Tâm
dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Nghĩa là mọi chuyện
khổ đau hay hạnh phúc; hy vọng hay thất vọng; yêu đời hay chán nản; địa
ngục hay thiên đàng; phàm phu hay hiền thánh, Phật hay chúng sanh; Tịnh
độ hay Ta bà đều do tâm ta tác động mà tạo thành. Tâm gắn liền với trí
tuệ, với từ bi hỷ xả, với độ lượng bao dung, thì tâm sẽ tạo ra hạnh
phúc, an lạc, thiên đàng, tịnh độ cho ta. Tâm gắn liền với vô minh, tham
dục, sân hận, si mê, ích kỷ, kiêu mạn, thì tâm sẽ tạo ra khổ đau, thất
vọng, chán nản, oán thù, địa ngục cho ta. Nơi tâm ta, chứa đựng đầy đủ
hai năng lực tiêu cực và tích cực đối với cuộc sống. Nếu ta sống với
khuynh hướng nào, tâm ta sẽ có khả năng tạo ra cho ta cảnh giới đúng với
khuynh hướng ấy của tâm ta. Và tâm ta như thế nào, thì khi đối diện với
cảnh vật hay môi trường chung quanh, ta sẽ cảm nhận đúng như những gì mà
cái biết ở trong tâm ta lượng định. Vì vậy, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm,
đức Phật dạy “Tùy
chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Nghĩa là “mọi
sự hiểu biết hay cảm nhận đều tùy theo tâm lượng định của chúng sanh”.
Tâm ta ngang đâu thì ta hiểu biết và cảm nhận sự sống ngang đó, chứ chân
lý của sự sống không phải ngang tầm với tâm ta hiểu biết và cảm nhận.
Cho nên, các chủng loại khi đối diện với hoa mai, thì tùy theo tâm thức
hiểu biết của từng chủng loại mà ứng xử và cảm nhận, chứ cốt cách của
mai đâu có phải do những cảm nhận ấy của các chủng loại mà nó trở thành
ra những cái ấy.
Xuân là khôi nguyên của sự sống; là tinh
hoa của tâm; là rực sáng của tự tánh, nên: “Dễ
ai trong cõi tang bồng ấy, ôm được Chúa xuân thỏa một lần”.
Ta đa đoan, vì tâm ta hỗn độn trăm mối;
đời sống ta đa đoan, vì tâm ta tính toán lợi hại hơn thua đủ điều; ta
bao phen chìm nổi, vì tâm ta bận rộn thị phi của mọi người và muôn vật;
ta thất vọng, khổ đau, vì tâm ta tham dục quá nhiều. Nên, xuân đến với
ta cũng chỉ là những hỗn độn trăm mối; cũng chỉ là những lợi hại hơn
thua đủ điều; cũng chỉ là những thị phi lắm chuyện trên đời. Nhưng đó
chỉ là xuân của tâm ta, chứ đâu phải là xuân của xuân và xuân của những
tâm hồn tinh khôi, rực sáng và tĩnh lặng và đâu có phải là xuân của khôi
nguyên.
Nên, mỗi khi xuân đến, ta có cơ hội nhìn
lại tâm ta để trở về sống với bản tánh tinh khôi, rực sáng nơi tâm, để
ta hiện hữu với Chúa xuân và Chúa xuân cùng với ta hiện hữu.
Con đường trở về
Có một du khách hỏi vị Thiền sư: “Thế
nào là xuân?”. Sư trả lời: “Đừng
mò trăng dưới nước”. Khách nói: “Không
hiểu”. Sư nói: “Tâm
đã sạch mặc áo gì cũng đẹp; lòng vô ưu còn hỏi chuyện chi xuân!”.
Khách cười. Sư mời khách: “uống
trà đi!”.
Buông bỏ mọi tạp niệm, ngay cả những ý
niệm về xuân để trở về với tâm, ta sẽ gặp tâm xuân của ta. Tâm xuân là
Chúa xuân của đời ta và muôn vật. Bấy giờ ta sẽ thấy Chúa xuân tức khắc
sáng rực, hiện ra nơi tâm ta, cho ta một mùa xuân hồn nhiên, đầy tin yêu
và sức sống, đủ can đảm nhìn vào những biến thiên với muôn hình vạn
trạng của con người và xã hội để mỉm cười một cách an nhiên.
Nếu ta không buông bỏ tạp niệm về xuân,
thì ta chỉ là những lữ khách chạy rong theo hình bóng của xuân, chẳng
khác nào những kẻ đa tình lăn xăn đi tìm trăng, nhảy xuống đầm sâu để mò
trăng đáy nước!
Ta buông bỏ mọi tạp niệm về xuân, thì tức
khắc tâm xuân cùng với ta hiện hữu. Ta đem tâm xuân ấy mà cúng dường đức
Phật, Thầy Tổ; Ta đem tâm xuân ấy mà thắp hương tưởng niệm, nghĩ đến Tổ
tiên ông bà, cha mẹ, người thân đã qua đời, dù đang ở thế giới nào cũng
sống với tâm xuân và có tâm xuân để sống; đồng thời cầu nguyện cho những
người thân yêu của mình dù đang còn sống bất cử ở phương trời nào, cũng
có thể quay về được với tâm xuân, để có những phút giây sống thật đẹp và
thật yên bình ngay nơi nhân thế. Và ta cũng đem tâm xuân đó, cầu nguyện
cho mọi người, khắp trong mọi giới, ai ai cũng đều biết quay về với tâm
xuân, noi theo đường tu tập, bỏ ác làm lành, để cùng nhau tạo hưởng được
một mùa xuân đích thực.
Thích
Thái Hòa