Huỳnh Kim Quang
Sau những cơn
mưa và giá rét của mùa đông đánh dấu sự chấm dứt trạng thái già cỗi của
một chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ v à khai sinh một lộ trình mới, tươi,
trẻ và đầy sức sống của mùa xuân. Ở đó, vạn vật thay đổi toàn diện từ
trong ra ngoài. Những cành khô trụi lá được thay thế bằng lộc non xanh
tươi. Màu u ám của bầu trời nhường chỗ cho ánh dương quang rực rỡ. Lòng
người cũng vui theo với cuộc đời đổi thay sắc diện. Hy vọng và ước
nguyện được gửi trao vào cõi thời không như dường mới mở ra một vận đồ
kỳ diệu, mà thời điểm thiêng liêng nhất là phút giây gặp gỡ mầu nhiệm
của đất và trời, của thời và không, của tâm và cảnh ở thời khắc giao
thừa.
Năm cũ đi qua.
Năm mới vừa đến. Lòng người cũng biến dịch không cùng chỉ trong sát na
từ con người năm cũ thành con người năm mới, tuổi mới, thân tâm mới, đời
sống mới, và môi trường xung quanh cũng mới. Khi tâm người đổi thay thì
chánh báo và y báo cũng thay đổi theo. Đúng là, như Thiền Sư Vô Ngôn
Thông (759-826) đã từng nói, “Tất cả các pháp đều từ tâm sinh, nếu tâm
không sinh thì pháp cũng không nương đâu mà có.” [Nhứt thiết chư pháp
giai tùng tâm sinh, tâm vô sở sinh pháp vô sở trú.]
Vậy thì cái
khoảnh khắc ngắn ngủi của xuân trong chu kỳ biến dịch không ngừng của vũ
trụ là gi? Cái thời khắc xuân ấy có phải do tâm sinh, hay tự nó có? Có
thể nào xuân là mặt biến dịch của một thời tính nào đó? Hay xuân chỉ là
một cái duyên nhỏ bé mong manh trong dòng duyên sinh bất tận của vũ trụ
mà tận cùng chỉ là không tính rỗng lặng? Hay một cách trực diện hơn,
thời gian là gì?
Nhà bác học
Albert Einstein từng nói trong lá thư gửi cho gia đình sau cái chết của
người bạn Michele Besso vào năm 1955, rằng, “Những người như chúng ta
tin vào vật lý biết rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai chỉ là một ảo tưởng dai dẳng.” [People like us who believe in
physics know that the distinction between the past, the present and the
future is only a stubbonrnly persistent illusion.] Như thế, đối với
Albert Einstein thì thời gian là ảo tưởng, không thật.
Nhà vật lý học
hàng đầu của thế giới hiện nay là Stephen Hawking thì cho rằng thời gian
chỉ xuất hiện sau vụ nổ khai sinh ra vũ trụ gọi là “big bang,” cách nay
khoảng 14 tỉ năm. Đối với Stephen Hawking trước vụ nổ “big bang” thì
không có thời gian, vì không có gì cả, nghĩa là thời gian là quá trình
hiện hữu của vật chất, của vũ trụ. Nhưng có một vấn nạn mà có lẽ cho đến
nay khoa học vẫn chưa có câu trả lời xác đáng đó là trước vụ nổ “big
bang” thì thế gian này là gì? Từ đâu mà có vụ nổ “big bang”? Nếu vụ nổ
“big bang” là sự kiện khai sinh ra vũ trụ vật chất, vậy thì trước đó
nguồn cội của không gian và thời gian ở đâu? Vậy có thể nào vụ nổ “big
bang” là sự kiện tự sinh? Trên cõi đời này có cái gì có thể tự sinh mà
không cần tối thiểu một yếu tố, một điều kiện, một cái duyên khác? Chính
tự thân của thời gian, theo Stephen Hawking, cũng từ vụ nổ “big bang” mà
có, tức là thời gian cũng do duyên mà thành. Bản chất của thời gian chì
là nhận thức của con người khi đối chiếu sự hiện hữu của một vật, một sự
kiện từ điểm này kéo sang điểm khác, mà tự nó không thể tự có và cũng
không là gì cả.
Giáo lý nhà
Phật nói gì về thời gian? Đức Phật dạy tất cả các pháp, gồm thời gian và
không gian, đều vô thường, nghĩa là không dừng lại bất cứ thời điểm nào,
cũng đồng nghĩa là không có thời điểm nào tồn tại. Nhưng đến thời kỳ Bộ
Phái sau đức Phật nhập niết bàn thì có nhiều chủ trương khác nhau về
thời gian. Chẳng hạn, Hóa Địa Bộ (Mahisasaka) thì cho rằng quá khứ và vị
lai đều không thật, chỉ có pháp vô vi trong hiện tại là thật có (Quá khứ
vị lai vô, hiện tại vô vi hữu). Ngược lại, Nhất Thiết Hữu Bộ
(Sarvastivada) thì chủ trương ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều có
thật, và bản thể các pháp tồn tại mãi mãi (Tam thế thật hữu, pháp thể
hằng tồn).
Phật Giáo nói
chung còn có hai quan điểm về thời gian được thừa nhận một cách rộng rãi
bởi các trường phái, đó là quan điểm về sát na (ksana) và kiếp (kalpa).
Kiếp là khoảng thời gian dài vô tận, còn sát na là thời gian cực kỳ
ngắn, hay thời lượng ngắn nhất mà con người có thể nhận thức được. Tuy
nhiên, xét cho cùng, thì thời gian của kiếp cũng chỉ là sự nối dài vô
tận của sát na. Nhưng chính sát na lại gặp phải sự bế tắc khó vượt qua.
Đó là, nếu sát na là sinh diệt, mà tất yếu phải là sinh diệt thì mới có
sự nối tiếp liên tục của thời gian, thì trong một sát na ắt phải có sự
kinh qua của sinh, trụ và diệt, tức là quá khứ, hiện tại và vị lai.
Nhưng, nếu một sát na gồm có 3 thời thì nó tuyệt đối không là điểm thời
gian ngắn nhất. Cứ thế, hễ khi nào còn thời gian thì còn có sinh, trụ và
diệt, và như vậy thì đến một lúc nào đó nó sẽ đối mặt với 2 giả thiết
xảy ra: hoặc là trở thành vô cùng, hoặc là chấm dứt. Nhưng nếu vô cùng
thì không là thời gian, và ngược lại nếu chấm dứt thì cũng không là thời
gian nốt.
Chính vì vậy
mà ngài Long Thọ đã phân tích đến chỗ kỳ cùng ý nghĩa của thời gian
trong Phẩm
Quán Về Thời Gian Thứ 19 của
Trung Luận, để cho thấy quá khứ, hiện tại và vị lai đều không
thật có, đều không, và có là do tâm phân biệt vọng chấp của chúng sinh
mà thành. Xin trích một đoạn trong Phẩm Quán Về Thời Gian của Trung Luận
qua bản dịch Việt của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, như sau:
“Hỏi: Phải có
thời gian, vì nhân đối đãi mà thành. Nhân có thời quá khứ, mà có thời vị
lai, hiện tại; nhân thời hiện tại mà có thời quá khứ vị lai; nhân thời
vị lai mà có thời quá khứ hiện tại. Các pháp trên, giữa, dưới, một và
khác cũng nhân đối đãi với nhau nên có?
“Đáp:
“1. Nếu nhân
thời quá khứ mà có thời vị lai và hiện tại. Vậy thời vị lai và hiện tại
phải có ở trong thời quá khứ.
“Nếu nhân thời
quá khứ mà có thời vị lai hiện tại, thời ở trong thời quá khứ phải có
thời vị lai hiện tại, vì sao? Vì tùy theo chỗ sở nhân mà có pháp hiện
thành. Chỗ ấy phải có pháp ấy, như nhân nơi đèn mà có ánh sáng, tùy chỗ
có đèn phải có ánh sáng. Như vậy nhân nơi thời quá khứ mà có thời vị lai
hiện tại, thì ngay trong thời quá khứ phải có thời vị lai hiện tại. Nếu
trong thời quá khứ đã có thời vị lai hiện tại, thì cả ba thời đều gọi là
thời quá khứ, vì sao? Vì thời vị lai hiện tại có ở trong thời quá khứ.
Nếu tất cả thời đều quá khứ cả, thì không có thời vị lai hiện tại, vì
đều là quá khứ. Nếu không có thời vị lai hiện tại, thì cũng không có
thời quá khứ, vì sao? Vì thời quá khứ nhân nơi thời vị lai hiện tại mà
có, nên gọi là thời quá khứ. Như nhân nơi thời quá khứ mà thành thời vị
lai hiện tại, như vậy cũng có thể nhân nơi thời vị lai hiện tại mà thành
thời quá khứ. Nay đây vì không có thời vị lai hiện tại, nên thời quá khứ
cũng không có.” (Nguồn:
http://thuvienhoasen.org/p19a15714/2/pham-19-quan-ve-thoi
Ngài Long Thọ
cũng đưa ra một thí dụ cụ thể để giải thích rõ hơn về bản chất không
thật của thời gian qua hành động đi đến trong Phẩm Quán Sát Về Đi Đến
Thứ 2 của Trung Luận. Xin trích một đoạn trong bản dịch Việt của Hòa
Thượng Thích Thiện Siêu, như sau:
“Hỏi: Thế gian
chính mắt thấy ba thời có động tác. Thời đã đi, thời chưa đi, thời đang
đi. Vì có tác nghiệp nên biết thật có vật thể?
“Đáp:
“1. Lúc đã đi
thì không có đi, lúc chưa đi thì cũng không có đi, lìa ngoài đã đi và
chưa đi, lúc đang đi cũng không có đi.
“Đã đi không
có đi, vì đã đi rồi. Nếu lìa ngoài đã đi có động tác đi, việc ấy cũng
không đúng. Chưa đi cũng không có đi, vì chưa có động tác đi. Còn lúc
đang đi là một nửa đi một nửa chưa đi, vì không lìa khỏi đã đi và chưa
đi vậy.” (Nguồn:
http://thuvienhoasen.org/p19a15714/2/pham-19-quan-ve-thoi
Nhưng nếu thời gian và không gian, hay tất
cả các pháp đều không thật thì cái gì tạo nghiệp, thọ khổ và ai giải
thoát sanh tử để chứng đắc niết bàn?
Để giải thích
về vấn đề trên, các nhà Duy Thức đưa ra quan điểm về chủng tử (bija) là
năng lượng được phát sinh từ hành động chủ ý của thân và khẩu để duy trì
nhân quả, nghiệp lực, và thắng duyên thành tựu đạo quả giác ngộ giải
thoát. Các nhà Duy Thức đưa ra 6 đặc tính của chủng tử, mà trong đó đặc
tính đầu tiên là sát na diệt, nghĩa là “Thể của nó vừa sinh tức thì diệt
ngay không gián cách, có công lực đặc thù mới có thể thành chủng tử. Đặc
tính này loại ra những gì là pháp thường hằng. Cái gì thường hằng không
biến chuyển thì không thể nói có khả năng phát sinh tác dụng.” (Thích
Tuệ Sỹ dịch và chú,
Luận Thành Duy Thức,
Thư Quán Hương Tích, 2009, trang 181)
Như thế các
pháp không có thực thể nhưng chẳng phải là hư vô tuyệt diệt. Con người
cũng vậy, không có tự ngã thường hằng, nhưng chẳng phải không có năng
lực duy trì việc tạo nghiệp và thọ quả. Đó chính là chỗ vi diệu của nhị
đế -- tục đế và chân đế, chân lý ước lệ và thực tại tuyệt đối, hay thế
gian và niết bàn -- mà ngài Long Thọ xưng tán. Theo ngài Long Thọ thì
người nào chưa hiểu được nhị đế sẽ không nắm vững được giáo nghĩa thâm
sâu của đức Phật.
Chính nương
vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ
người và xiển dương Chánh Pháp.
Hiểu được bản chất chân lý ước lệ của thế
gian, người con Phật sẽ cảm nhận ngày xuân diễm ảo và huy hoàng hơn
trong tâm thức an lạc. |