Thủ bút của
thượng tọa
Giới Đức
Minh Đức
Triều Tâm
Ảnh
Cuộc hội thảo ngày
hôm nay sẽ có những
bài tham luận
(1) đóng góp về
mặt tư tưởng, lý
luận cho loại hình
nghệ thuật thư pháp
còn quá non trẻ của
chúng ta. Ban tổ
chức lại còn mong
muốn mọi người chia
sẻ kiến thức, tìm
kiếm cơ hội hợp tác,
phát triển nền thư
pháp Việt, truyền bá
văn hóa bản sắc...
Tất cả những việc
làm có ý nghĩa và
đáng trân trọng ấy,
về các lãnh vực ấy,
tôi không am tường.
Tôi chỉ xin giới hạn
nội dung để chỉ nói
khái quát về nền thư
pháp Việt, sau đó là
thư pháp trong nhà
chùa với những cảm
nhận riêng tư.
Thật là lạ lùng, đây
là một cuộc hội thảo
nghiêm túc, có tầm
vóc “quốc gia”
nhưng bản thân
tôi lại băn khoăn về
hai từ tham luận.
Tham là dự vào, xen
vào ai cũng biết. Và
luận là lời bàn, bàn
luận, bàn thảo, kể
cả luận suy, luận
thức, luận tri, luận
chứng, luận vấn...
Cả thế gian này, xã
hội này ở đâu cũng
tham và luận. Nếu
tham và luận nhiều
quá thì nó sẽ rách
việc. Nếu tham và
luận chừng mực, hay,
nhưng không hành
động thì cũng coi
như không. Có nhà tư
tưởng nào đó nói
rằng, ý nghĩ và lời
nói chỉ là lá và hoa,
nhưng hành động mới
là trái và quả. Tất
cả chư vị thức giả ở
đây đã hiểu điều ấy.
Nên chúng cần phải
được định hướng. Rồi
cùng nhau hành động.
Nhưng, mũi tên nhắm
đúng tiêu điểm chưa
chắc đã trúng vì còn
tùy thuộc mắt nhắm,
cơ bắp và các tốc độ
gió tương tác. Hành
động cũng vậy, phải
biết quyền biến tùy
duyên cơ. Chiếc
thuyền thư pháp Việt
ra khơi để hội nhập
với biển lớn để làm
được cái gì đó, cũng
tương tợ như vậy.
Còn nữa, nghệ thuật
viết chữ là đi tìm
kiếm Cái Đẹp, nó
thuộc phạm trù mỹ
học. Nhưng chúng ta
thường tìm kiếm Cái
Đẹp ấy bằng dụng cụ
gì? Phương tiện nào?
Ai cũng biết là sử
dụng cảm tính, kiến
thức và lý trí - mà
chúng là hiện thân
của khiếm khuyết và
bất toàn. Bi kịch ấy
là bi kịch của nhân
loại, của mọi chân
lý chủ quan trên
cuộc đời này. Khoa
học cũng thế, nó
không khách quan đâu,
nó tin vào các thiết
bị đo đạc, trắc
lượng, kiểm chứng do
cảm giác, tri giác
và lý trí cung cấp -
mà bao giờ chúng
cũng sai lạc, không
trung thực. Nó cũng
khiếm khuyết và bất
toàn vậy! Các nhà
quang học, thần kinh
học và vật lý lượng
tử cho biết như thế.
Cái Đẹp cũng vậy,
nói chung là mỹ học,
cả Đông hay Tây đều
đang trên đường tìm
kiếm, còn lắm tranh
luận bất đồng. Do
vậy, theo tôi, mỗi
người hãy đi theo
Cái Đẹp của mình. Ai
cũng nên tìm kiếm
cái tận thiện tận mỹ
trong lòng mình. Tận
thiện, tận mỹ của
cây xoài là vị ngọt
của trái xoài. Tận
thiện, tận mỹ của
cây mít là vị ngọt
của múi mít.
Cam,
chuối, đu đủ... đều
có sự tận thiện, tận
mỹ đặc thù, cá biệt
tính của chúng. Nếu
mà giống nhau
thì nguy to! Các vị
ngọt dù khác nhau
nhưng anh nào cũng
tận thiện, tận mỹ cả.
Vậy mới thực là đẹp,
mới thực là phong
phú cho cái cuộc đời
nhiều khổ ít vui này.
Đạo Phật là đạo như
chân, như thực. Tôi
yêu cái chân và cái
thực! Nhưng xin thưa
rằng, cuộc đời này
không dễ gì thấy
được cái thực, cái
chân đâu! Nếu mà hy
hữu có được cái chân
cái thực “tương
đối” ấy thì để
mà sống thầm lặng
trong lòng mình;
nhưng thiện và mỹ là
sống với cuộc đời,
dành cho thế gian
lúc nào cũng cần
những liều thuốc văn
hóa để bồi dưỡng
sinh hoạt tinh thần;
cần tình thương, sự
đùm bọc và sẻ chia
bằng trái tim nhân
ái! Nói logic và
biện chứng một chút
thì lộ trình ấy phải
được đi từ mỹ,
đến thiện
rồi mới đến
chân!
Do vậy, hôm nay,
những tư tưởng thâm
uyên, những lý luận
cao diệu, những đóng
góp kiến thức, đường
hướng phát triển,
gìn giữ bản sắc,
quảng bá văn hóa
nghệ thuật gì gì đó,
xin để dành cho
những bài viết của
các vị trí thức
khác; riêng tôi, tôi
chỉ muốn được kể lại
cuộc đời mấy mươi
năm viết chữ của
mình, như một trao
đổi thông tin, một
tự sự, như một chia
sẻ của một người
trên 30 năm viết
chữ. Nó không phải
là những tư tưởng có
lửa, những lý luận
có cánh; chỉ là
những chiêm nghiệm
cá nhân, cái nhìn
phiến diện được giới
hạn trong nhà chùa
mà thôi vậy.
Tôi học chữ Hán khi
còn bò toài trên bộ
phản ngựa do cha tôi
dạy với cây roi mây
để bên! Lớn lên, 10
năm đèn sách phổ
thông, đọc chữ Hán
thì nó nhìn tôi, tôi
nhìn nó mà không ai
hiểu ai! Sau này,
khi đi tu rồi tôi
mới có dịp học chữ
Hán và tập viết thư
pháp Hán. Lúc rãnh
rỗi lại lật những
danh tác của các thư
pháp gia Tàu, Nhật
để xem. Tôi mê mẩn.
Mấy ngón tay cứ bị
hấp lực của những
con chữ lôi cuốn, từ
trang này sang trang
khác. Chữ như từng
nhát kiếm. Chữ như
từng đốt trúc. Chữ
như rồng lượn, liền
lạc một hơi không bị
đứt khúc. Chữ lại
thô tháo, vụng về
nhưng nhìn một hồi
lại toát ra cái chân
mộc, thuần phác và
điềm đạm, vô sự đến
không ngờ! Tập viết
mãi cũng chẳng giống
ai; mà giống ai đó
thì chết rồi, thà
đừng viết còn hơn!
Mà dẫu viết có đẹp
thì cũng chẳng thể
nào theo kịp anh Tàu
và anh Nhật! Còn
nữa, sau này (khoảng
năm 1992-1993) do
viết hoài cũng
không thể bằng thầy
Châu Lâm (Phước
Thành) nên tôi bỏ.
Trở lại với chuyện
viết chữ Việt bằng
bút lông. Tôi không
còn nhớ chính xác,
chỉ khoảng đâu vào
năm 1960-1965, tôi
được thấy nét bút
lông của nhà thơ
Đông Hồ, sau đó là
nét bút sắc của nhà
văn Nhất Linh và nhà
thơ Vũ Hoàng Chương
trên tạp chí Ngày
Nay. Nét bút lông
nhỏ nhắn, chân
phương của nhà thơ
Đông Hồ chỉ mới là
người sử dụng bút
lông để viết chữ
Việt, có tính cách
khai phá chứ chưa
phải là thư pháp.
Nét bút sắc của nhà
văn Nhất Linh và nhà
thơ Vũ Hoàng Chương
được cái phóng
khoáng, vượt ra
ngoài khuôn thước
nhưng lại không phải
bút lông, cũng chưa
được gọi là thư
pháp! Tuy nhiên, gộp
cả hai bên, họ là
những người gợi ý
đầu tiên giúp tôi sử
dụng bút lông để
viết chữ Việt cho có
nghệ thuật hơn một
chút. Tuy nhiên,
những năm 1974-1976,
tôi tập viết mãi
những câu thơ đắc ý
để treo chơi nhưng
nó cũng chỉ là những
nét nguệch ngoạc như
giun bò!
Khoảng năm
1977-1978, tình cờ
đâu đó, lúc vào
Sài-gòn, dường như
tại chùa Bửu Quang,
Thủ Đức thì phải -
tôi lại bắt gặp nét
bút sắc sảo, góc
cạnh của nhà thơ Trụ
Vũ. Khí bút của nhà
thơ Trụ Vũ mạnh mẽ,
nhiều nét như nhát
kiếm, dứt khoát
nhưng những nét đuôi
đi sau thì mềm mại,
liền lạc tạo nên sự
cương nhu, âm dương
hài hòa. Phải nói là
sau khi xem bút của
nhà thơ Trụ Vũ, tôi
mới thật sự tập tành
nét bút của mình,
tuy vẫn còn rất thô
xấu, vụng về.
Các năm 1979-1980,
vườn chùa Huyền
Không ở Huế treo đầy
thư pháp Việt và cả
chùa Bửu Quang, Thủ
Đức - vì vị trụ trì
ở đây là Sư Thiện
Quang, bạn thân của
tôi. Tại chùa Bửu
Quang, nghe sư Thiện
Quang kể lại, là nhà
thơ Trụ Vũ có đến
xem, ông không có ý
kiến gì về nội dung
thơ, nhưng chê là
nét bút còn non.
Đúng vậy, không
những là còn non mà
phong cách cũng chưa
ra dáng ra hồn gì!
Thuở ấy, ở Huế, tôi
chỉ chơi thi bút một
mình, rất “cô
đơn”. Và có lẽ,
tại Sài Gòn, nhà thơ
Trụ Vũ cũng rất cô
đơn như thế;
thi bút của ông chỉ
xuất hiện lác đác
trong các ngôi chùa
thân quen, chưa lan
ra ngoài xã hội. Nhà
thơ Trụ Vũ ở Sài Gòn
nên có chất liệu
giấy, bút, mực khá
hơn. Còn tôi ở Huế
thì quá nghèo nàn -
Huế thơ, Huế
mộng, Huế chộng bộng
hai đầu - thì
đừng nói đến văn
phòng tứ bảo! Giấy
không có, mực không
có và bút triện gì
cũng không có luôn.
Cứ bạ gì dùng nấy.
Tôi cũng chẳng hề
nghĩ đến nó là thư
pháp Việt. Chính vì
tôi là người thích
làm thơ nên hễ có
câu thơ nào nghe
đường được, thế là
viết, là treo lên để
đọc chơi - nơi một
góc làng quê ít
người lui tới. Cuộc
đời mệt mỏi quá. Dẫu
ăn khoai, ăn sắn qua
ngày nhưng huynh đệ
chúng tôi đã gầy
dựng được một vườn
lan rất công phu,
một bộ sưu tập khá
phong phú lan nội
cũng như lan ngoại.
So với Sài Gòn thì
không ăn ai - nhưng
ở Huế thì nó là
nhất. Vườn lan này
là dấu ấn kỳ lạ một
thời, nổi tiếng một
thời! Thế là không
những lan nở bốn mùa
mà đến khi đúng tiết
của nó như Nghinh
xuân, Ý thảo, Dã
hạc, Thủy tiên,
Phượng vỹ, Hồng liên
song tử ngọc ... thì
nở cả rừng! (Nếu có
ai từng đọc “Lan
Huyền Không” của
nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường thì sẽ có
thể biết khái quát
lan vườn Huyền Không
thuở đó như thế
nào). Tôi lại còn
làm hồ nước, những
bãi cỏ xanh, lác đác
những mái thơ, hiên
thơ, những cụm đá...
rồi điểm xuyết thơ
trên tường, treo gốc
cây, trên đá, bên
lối đi... Lại có
thêm mấy bộ bàn đá
để những lúc lao
động mệt mỏi huynh
đệ chúng tôi ra đấy
uống trà, chơi cờ
tướng. Chúng tôi đã
tự tạo cho mình và
bạn hữu một không
gian với niềm vui êm
đềm, thanh bình và
lặng lẽ.
Tuy nhiên, những năm
1980-1985, cái vườn
chùa quê mùa và lặng
lẽ này lại được mọi
người ưa thích. Ban
đầu là lác đác một
vài người bạn cũ,
các nhà giáo, một
vài thầy rồi lại
xuất hiện thêm một
số nhà văn, nhà thơ.
Hóa ra, có một số
câu thơ viết bằng
bút lông, đặt để chỗ
thích hợp lại
tạo nên một cảm xúc
sâu đậm trong lòng
người. Sau tôi, ở
Huế có nhà thơ
Nguyệt Đình xuất
hiện; ở Sài gòn có
nhà thơ Song Nguyên
vi vút phóng bút.
Tôi không còn nhớ có
ai khác nữa không,
xuất hiện từ lúc nào
- nhưng từ đó, phong
trào thư pháp lan
rộng ra - kết quả đó
là nhờ vào Trụ Vũ,
Nguyệt Đình, Song
Nguyên được xem như
là những con chim
đầu đàn. Và cho đến
khi Chính Văn, Thanh
Sơn, Y Sa... xuất
hiện thì thư pháp
Việt mới trở nên xôm
trò.
Năm 1999, tôi, thầy
Châu Lâm, nhà thơ
Nguyệt Đình phụ
trách gian triển lãm
thư pháp Hán-Việt
trong tuần lễ Văn
hóa Huế tại Hà Nội.
Câu lạc bộ thư pháp
Huế có mặt từ lúc
này, được bộ Văn hóa
xác nhận, nhà thơ
Nguyệt Đình còn lưu
giữ bằng khen. Năm
2002, nhân dịp hội
Hoa xuân Huế, chúng
tôi thực hiện một
vườn thư pháp khá
hoành tráng trên bãi
cỏ gần CT Cây Xanh.
Rồi từ đó, tôi và
thầy Châu Lâm rút
lui, không tham gia
tổ chức một cuộc
triển lãm nào nữa.
Chủ nhiệm CLB thư
pháp Huế do nhà thơ
Nguyệt Đình đảm
trách. Còn tôi thì ở
núi rừng Huyền Không
Sơn Thượng, đã để
dành một không gian
sơn thủy lớn rộng
hơn 01 ha để chơi
thi bút, bốn mùa đều
có thơ, cả hằng trăm
bức, thỉnh thoảng có
gián đoạn, gần 10
năm nay!
Lúc này thì phong
trào thư pháp đã rầm
rộ khắp cả nước do
sự xuất hiện của các
thư pháp gia trẻ
tuổi, tôi chỉ nhớ
tên một số vị như
Bùi Hiến, Nguyễn
Thiên Chương, Hồ
Công Khanh, Tuấn
Hải... Chính nhờ sự
xuất hiện của họ mà
thư pháp Việt bước
lên một cấp độ mới,
năng động hơn, trẻ
trung hơn (Các nhà
thư pháp Hà Nội và
các tỉnh thành khác,
nghe nói cũng mới
mẻ, trẻ trung, tài
hoa, mãnh liệt lắm
nhưng do tôi không
đọc sách báo, tạp
chí nên không nắm
được thông tin).
Chúng tôi, thế hệ
viết chữ đi trước đã
già rồi. Ví dụ như
nhà thơ Trụ Vũ thì
nét bút đã định hình
một phong cách,
không thể lẫn lộn
với ai được. Mà khi
đã định hình thì
không còn biến hóa
được nữa, chỉ có
tinh và thuần
hơn mà thôi.
Nguyệt Đình, Song
Nguyên, Chính Văn,
Thanh Sơn, Y Sa...
cũng tương tợ thế.
Chỉ thế hệ trẻ đi
sau là có tư duy
nghệ thuật vững
vàng, không ngừng
tìm kiếm và sáng tạo
nên tiếp cận được
hơi thở của thời
đại. Thế rồi các CLB
thư pháp, thư họa
nườm nượp ra đời -
mà rôm rả nhất là
Sài Gòn và Đà Nẵng.
Tiếp theo là do nhờ
các CLB trên mở lớp
dạy thư pháp nên bộ
môn nghệ thuật chơi
chữ này được dịp len
lỏi vào các ngõ
ngách của nhân sinh,
trở thành một nhu
cầu tinh thần không
thể thiếu trong các
chùa, thiền đường,
am cốc, lễ, Tết,
Phật đản, Vu lan,
mừng thọ, lạc thành
tân gia, lạc thành
nhà hàng, thành hôn,
hiếu hỷ, quà tặng đi
xa, lịch treo tường,
lịch để bàn, phòng
trà, phòng khách,
bàn làm việc, trên
mạng, tên cửa hiệu
và cả quảng cáo,
minh họa nữa. Thú vị
thế đấy.
Để tiếp truyền sinh
lực và hơi thở cho
nghệ thuật viết chữ,
các nhà thư pháp có
trình độ đã viết
sách dạy thư pháp để
quảng bá thêm;
sách lý luận, nghiên
cứu để đào sâu về tư
tưởng... Tôi có viết
giới thiệu cho một
vài. Trong số sách
tôi được đọc trước
khi xuất bản, có hai
quyển, đối với tôi
là có ấn tượng nhất.
Một là của tác giả
Đăng Lan, hai là của
Nguyễn Hiếu Tín.
Nữ tác gia Đăng Lan
viết những bài có
tính lý luận, gợi mở
một vài chiều sâu
của tư tưởng cho bộ
môn thư pháp. Tuy
chỉ mới một vài phác
thảo khiêm tốn, có
tính mở đường nhưng
đã hé lộ được một
phần nào đó chiều
sâu của tư tưởng cho
bộ môn thư pháp làm
chỗ sở y. Cái chất
Đông phương và chất
Thiền bàng bạc ở
trong những trang
sách làm cho tôi có
cảm tưởng Đăng Lan
đã mở được cánh cửa
đã bị phong kín từ
quá khứ - để cho các
giá trị mỹ học tâm
linh cổ xưa tràn về.
Nguyễn Hiếu Tín là
nhà thư pháp trẻ, đã
dám cả gan lấy đề
tài thư pháp để viết
luận văn thạc sĩ cho
mình. Đây là cả một
công trình biên khảo
dài hơi, được đánh
giá là xuất sắc của
hội đồng giám khảo
trường KHXH&NV. Đọc
công trình nghiên
cứu này, ta có dịp
biết đến, tuy khái
quát nhưng rất tiêu
biểu của các trường
phái thư pháp Đông
và Tây. Hóa ra, thư
pháp không phải là
độc quyền của Tàu và
các nước đồng văn!
Mẫu chữ Ả Rập cũng
có thể viết đẹp,
mang tính trừu tượng
khá cao. Mẫu tự la
tinh của các nước Âu
Mỹ với nhiều phong
cách thể hiện cũng
mang tính thực tế,
ứng dụng rất đa
năng, đa hiệu trong
nghệ thuật trang trí
và minh họa.
Vậy thì mẫu tự la
tinh chữ Việt của
chúng ta được dịp
cất cánh bay cao,
bay xa cũng là nhu
cầu của thời đại rất
đúng lúc và đúng
thời. Các thư pháp
gia trẻ tuổi ngày
nay tha hồ ngẫu hứng
biến hóa, đã bày ra
một cuộc chơi mới mà
thế hệ già chúng tôi
không theo kịp. Từ
thư pháp, họ bước
qua thư họa; từ thư
họa họ biến ra những
con chữ ngộ nghĩnh,
đôi khi sắp xếp
chúng trong một
không gian khá nhiều
ấn tượng. Được xem
một vài tác phẩm của
các bạn trẻ, tôi có
cảm tưởng họ còn
muốn hướng bộ môn
viết chữ này đến
nghệ thuật hậu hiện
đại - mà ở đó -
người ta không còn
đọc, hiểu nữa
mà phải là cảm
nhận. Các con
chữ được sắp xếp -
như nghệ thuật
sắp đặt - chúng
vừa logic vừa phi
logic, vừa hữu thức
vừa vô thức. Ở đây,
các con chữ tồn
tại giữa không gian
không tĩnh tại tuyệt
đối, mà nó vận động,
mà nó không ngừng
biến hóa. Đây là
điều đáng mừng. Đẹp,
xấu hoặc có giá trị
như thế nào thì tùy
thuộc thời gian và
công luận; nhưng
chắc chắn một điều:
Chẳng có góc độ nhãn
quan mỹ học nào có
thể định giá - nhưng
cái gì đi được vào
lòng mọi người thì
nó tồn tại!
Nghĩ cũng vui. Câu
thơ vốn vô hồn nhưng
khi đọc lên, ngâm
lên thì nó có hồn.
Các con chữ chỉ là
ký tự sắp xếp vô
nghĩa nhưng khi viết
lên, với nghệ thuật,
bố cụ thế nào đó thì
nó là cả một bức
tranh chữ, ngắm nhìn
hoài không chán. Nhà
chùa nhờ hoa, nhờ
cảnh, nhờ thơ, nhờ
nét bút mà tạo nên
một không gian văn
hóa, nghệ thuật
riêng, u nhã và
thanh bình. Tôi là
nhà sư. Bạn tôi, cố
trụ trì chùa Châu
Lâm, là nhà thư pháp
Hán. Y Sa là một vị
Ni sư. Trụ Vũ là cư
sĩ Phật tử kỳ cựu.
Song Nguyên cũng
vậy. Nguyệt Đình
cũng vậy. Và trong
cả nước, tôi còn
thấy khá đông chư
Tăng Ni và Phật tử
nữa. Tuy không tuyệt
đối nhưng đa phần
các nhà thư pháp, cũ
và mới dường như đều
là con Phật cả. Cũng
lạ kỳ! Vậy thì giữa
thư pháp và nhà chùa
có liên hệ gì mà
xuất hiện đông đảo
chư Tăng Ni và Phật
tử yêu mến bộ môn
này? Tôi sẽ có một
vài thiển kiến, một
vài kỷ niệm, một vài
cảm nhận về điều ấy.
Một người viết chữ
thuần thục, tinh
luyện bao giờ cũng
đi qua ba giai đoạn
- xin mượn thuật ngữ
của đạo gia để cô
đọng ý tưởng ấy
- là Tinh, Khí và
Thần (tinh thành
khí, khí hóa thần,
thần hoàn hư). Tinh
là toàn bộ hình
thức, bố cục, kỹ
thuật viết chữ. Khí
là toàn bộ tâm hồn,
ý khí để thực hiện
nét chữ ấy. Và Thần
là đã đạt được sự
thượng thừa của nghệ
thuật chữ. Nếu viết
chữ đẹp không thôi,
thì chỉ mới là Tinh.
Viết chữ đẹp rồi
nhưng biểu lộ được
cá tính, phong cách,
tâm hồn của mình nữa
mới là Khí. Ở đây,
sự thể hiện linh hồn
của con chữ, tùy
thuộc từng người,
từng lúc, từng khi;
đôi khi tùy thuộc
chữ và nghĩa, cả ý
thơ nữa... Cho nên,
có rất nhiều phong
cách khác nhau: Có
những nét chữ dịu
dàng, mềm mại, phóng
khoáng, phiêu bồng,
điệu dáng, kiểu
cách, xương kính,
phụng vũ, rồng bay,
mạnh mẽ, sóng cuộn,
đứt khúc, gãy vụn,
cọng cỏ lau gió
thổi, dáng trúc đứng
hiên ngang, trần
lụy, rối rắm, đoan
nghiêm, chân mộc,
giản phác, thanh
thản... Nó nhiều
lắm. Còn giai đoạn
Thần thì không nói
gì được nữa - vì
Thần là hoàn hư
- nên người ta
thường trầm trồ và
tán thán: Ồ! Đúng là
thần bút! Và
không còn ngôn ngữ
nào để diễn đạt được
nữa!
Vậy, đến đây, tôi
tạm kết luận rằng,
thần bút là đích
điểm tuyệt đối của
nghệ thuật viết chữ,
ấy là chân trời
hướng đến của thư
pháp, xưa cũng như
nay!
Tuy nhiên, thư pháp
trong nhà chùa nó
không dừng lại ở đó,
ở nơi cái mỹ học
hình thức ấy. Nó
còn có cả một đại
dụng vi diệu, tuyệt
bích nữa kìa! Điều
tôi sắp nói đây
chính là chữ và
nghĩa.
Cho chữ nhưng mà chữ
gì? Nghĩa chữ ra
sao? Ai viết? Ai
cho? Đối với Đông
phương nói chung,
Việt
Nam
nói riêng, chúng
quan trọng lắm. Có
một vài cư sĩ lớn
tuổi, đến tôi xin
chữ, khi cho chữ
Đức, họ không dám
nhận, nói rằng:
Con xét mình, nhà
mình chưa có đức gì
nên không dám treo
chữ Đức - xin sư cho
con xin chữ Tâm để
hằng ngày nhìn vào
tâm mình mà tu tập.
Và rồi, đa phần họ
xin chữ nhẫn, chữ
phúc, chữ an, chữ
lạc, chữ thường, chữ
trí, chữ định, chữ
nhân, chữ hiếu, chữ
tín, chữ nghĩa...
Còn các chữ thiền,
đạo, Phật, thánh,
tuệ, giác ngộ, giải
thoát... họ không
dám treo!
Cũng chuyện chữ. Hồi
Cố Đại lão Hòa
thượng Trúc Lâm viên
tịch - người ta đi
đối, liễn thơ rất
nhiều; nhưng toàn bộ
nội dung phụng cúng
ấy, theo tôi, không
bằng ba chữ thầm
lặng của thầy Châu
Lâm. Sự việc như
sau. Hôm ấy, tôi và
thầy đang ngồi cạnh
cỗ kim quan để xem
chư Ni trang trí.
Bất chợt, thầy tủm
tỉm cười, lấy giấy
bút ra, phóng liền
ba chữ “Bế mạn
quan” rất có
thần, rồi cho cắt
giấy màu kim tuyến
dán lên ngay. Thầy
nói nhỏ với tôi:
“ Ôn đã đi quách
rồi, còn đâu ở đây
nữa mà người ta tổ
chức cúng lễ, phúng
điếu dữ rứa!” Ôn
Từ Đàm tình cờ đi
ngang, chợt thấy
chúng tôi khúc khích
cười, dừng lại, liếc
nhìn rồi hỏi:
“Ông viết cái chi
đó?” Xem xong,
Ôn quắc mắc nói:
“Tại sao lại “bế” mà
“bế mạn”? Chữ nghĩa
ấy ở đâu, kinh điển
nào?” Thầy Châu
Lâm cười ha ha:
“Chữ nghĩa mô Ôn,
kinh điển mô Ôn! Mạn
bộ thủy, chỉ khép hờ
rứa thôi, câu thúc
chi được, bó buộc
răng được trong cái
quan ni! Ôn đã
“chích lý Tây quy”
lâu rồi!” Ôn Từ
Đàm có vẻ ngẫm ngợi
một chút rồi gật
đầu: “Được”,
rồi bỏ đi! Ôn Từ Đàm
mà nói “được”,
có nghĩa là đắc
chữ rồi đó!
Cũng chuyện chữ nữa.
Khi tôi lên núi dựng
một am tranh, xung
quanh trồng trúc,
đặt tên là Phong
Trúc am, thầy Châu
Lâm hay lên chơi. Có
lần, thầy nói: “Ở
đây núi rừng cây
cảnh thanh u, rất
hữu tình, mà tu sĩ
chúng ta đâu phải là
người không có tình”
- rồi cho tôi
một cặp đối: “
Bất tục tức tiên
cốt, đa tình thị
Phật tâm!” Tôi
nói: “ Không tục
là cốt tiên! Nhiều
tình (đa tình) là
tâm Phật! Hay quá là
hay! Câu này của
ai?” Thầy cười
cười: “ Của Ôn
Giác Tiên, khai tổ
chùa Trúc Lâm, là
người cùng làng Giạ
Lê, cùng họ Nguyễn
Duy với sư đó!”
Chữ nghĩa như vậy
đấy! Chữ đa tình
rất dễ bị hiểu lầm,
nhưng khi hiểu tứ
vô lượng tâm của
đức Phật rồi - thì
ai cũng công nhận là
từ dùng rất đắc, rất
đáo để - để đối với
bất tục, rất
nhã, rất kín đáo!
Kể sơ qua như vậy để
thấy rằng, chữ Hán
được cái đắc thể là
nó đa tầng, đa
nghĩa, đọng, sâu,
rộng, khái quát -
nên đôi khi chỉ vài
ba chữ mà chúng ta
phải suy gẫm cả đời,
học cả đời không
hết. Thơ, đối chữ
Hán cũng vậy. Ở nơi
cửa Phật, cửa Thiền,
có rất nhiều chữ,
nhiều câu nó âm
trầm, sâu sắc, u
huyền vô cùng...
Nó rung động sâu xa
đến tế bào óc, tế
bào tim. Như một
nhát đao chém ngọt
vào hữu thức thường
nghiệm. Như mở ra
một hố thẳm tuyệt lộ
cho danh lý và ngữ
ngôn. Như gợi nhắc
thâm sâu con đường
trầm luân của nhân
thế. Như mở ra cánh
cửa một phương trời
mây trắng... vân
vân và vân vân.
Nhưng rất tiếc,
chúng ta không có đủ
thì giờ rong chơi,
ngoạn du vào thế
giới này, nên chỉ
xin được biểu trưng
khái lược rằng:
Nó nuôi dưỡng tâm
hồn. Nó giữ gìn khí
tiết. Nó nhắc nhở
thầm lặng lộ trình
tu tập. Nó là cuộc
chơi tri thức và chữ
nghĩa. Nó giáo dục
nhân văn và giáo dục
tâm linh. Nó giáo
dục đạo đức, nhân lý
cho cuộc đời. Nó
hướng thiện và hướng
thượng cho xã hội
đang tha hóa, sa đọa
vì vật chất và tiền
tài. Là cuộc chơi
giữa ngàn cao sương
khói, chỉ có gió
trăng và nước mây
thanh bình, tĩnh
mặc!
Trở lại với thư pháp
Việt. Tạm gọi là thế
vì tôi cũng chưa
biết thư pháp Việt
đã đạt được nội hàm
của “nghệ thuật
chữ” hay chưa!
Tuy nhiên, thì nó
cũng chữ, cũng thơ,
cũng đối, cũng mang
vác sứ mạng cao cả
và linh thiêng đâu
có thua kém gì thư
pháp Hán; nhiều câu
thơ, đối chữ Việt
cũng thần tình, cũng
cổ lục và cảo thơm
lắm! Nhưng mà nghe
chừng, Tinh, Khí,
Thần thì chúng ta có
thể đạt; hồn chữ,
hồn thơ, hồn bút,
thần bút gì đó, có
thể chúng ta cũng
không thua ai, nhưng
chữ và nghĩa
thì sao? Dĩ nhiên
tôi muốn đề cập đến
chữ và nghĩa
trên thị trường,
đang quảng bá giữa
đại chúng mà thôi!
Theo cái nhìn hơi
nghiêm khắc của nhà
chùa - tình thật mà
nói rằng, tôi có xem
nơi này và nơi kia -
thì nói chung,
chữ và nghĩa một
vài nơi đâu đó còn
hời hợt, “mì ăn
liền” lắm; nó
tràn lan phúc, lộc,
tài, thọ, thịnh
vượng, an khang; một
câu đối không ra
đối, một câu thơ
không có thơ, một sự
lập lại đâu đó thiếu
nghiêm túc! Nói
chung là nó thiếu cả
một, hai tầng văn
hóa, đó là chưa nói
đến văn hóa tâm
linh! Chữ và
nghĩa phải nâng
cuộc đời này lên,
chứ không phải cúi
xuống để vừa tầm thị
hiếu dung tục của
cuộc đời. Chúng ta
phải học. Chúng ta
phải sáng tạo. Chúng
ta phải khổ hạnh để
tư duy, tìm kiếm ngữ
nghĩa. Nói cường
điệu và ngoa ngôn
một chút, chúng ta
phải đọc cả thư viện
kim cổ Đông, Tây để
nắm cái sáng, cái
khôn của nhân loại,
mới xứng đáng là
người cho chữ. Điều
này thì nên học tiền
nhân, họ cho chữ đắc
lắm! Cái ấy không
phải dành cho thế hệ
chúng tôi mà dành
cho các thế hệ trẻ
có đầy đủ sức khỏe,
sinh lực, thời gian,
ý chí và cộng cả ước
mơ nữa. Phải có ước
mơ các bạn ạ. Làm
việc, viết chữ, giao
lưu mà không có ước
mơ thì sẽ trần trụi,
khô chết. Đừng nên
xem nó là một nghề,
một nghiệp - nó là
cả một bộ môn nghệ
thuật thể hiện
cái mỹ và cái
thiện phụng hiến
cho cuộc đời! Tuổi
trẻ là tuổi của màu
xanh, của hy vọng;
cái gì tuổi trẻ cũng
có thể làm được. Tôi
rất tin tưởng vào sự
thăng hoa thật sự
trong mai hậu. Nó
đang nằm trong tay
các bạn trẻ. Khi cái
cây đã nẩy mầm, lớn
lên thì nó tự biết
hút nhựa luyện để tự
nuôi sống mình, tự
thích ứng với khí
hậu, thời tiết, tự
biết chen chân với
đồng loại rồi vươn
ra ánh sáng để tăng
trưởng, để tìm sự
tận thiện, tận mỹ
cho chính mình. Mỗi
nhà thư pháp trẻ,
Hán và Việt, cũng y
như vậy, rồi ai cũng
tự định hình cho
mình một phong cách,
có cần ai hướng dẫn,
vạch lối, chỉ đường
cho đâu? Đấy, tôi
gọi đấy là tự do và
sáng tạo. Có tự do
và sáng tạo, tự thân
nó đã nội hàm văn
hoá, nghệ thuật, bản
sắc, nhân văn, nhân
tính đầy đủ cả. Ngay
chính sự hội nhập đa
văn hoá toàn cầu
cũng y như vậy.
Chiếc thuyền thư
pháp ra khơi cũng đi
từ nền tảng ấy mà
chống mà chèo, mà
vượt đại dương.
Đến đây, tôi xin
thưa rằng, tuy thần
bút là mục đích cao
vời của thư pháp, là
Cái Đẹp cuối cùng
của thư pháp; nhưng
đối với nhà chùa thì
nó phải cần bước lên
một tầng mức chữ và
nghĩa nữa. Chữ và
nghĩa ấy phải cần
hượng thiện và hướng
thượng để nâng đỡ
cuộc đời đang tha
hoá và sa đoạ nầy.
Trong xã hội đương
đại, Cái Đẹp dễ gì
cứu chuộc cuộc đời
như văn hào
Dostoyevski đã nói?
Mỹ mà không có Thiện
dắt dìu thì nó chỉ
đơn thuần là chuyện
thưởng ngoạn, giải
trí, mua vui, trưng
bày tại những bảo
tàng nghệ thuật sang
trọng, quý phái; tại
các gian hàng buôn
bán, tiếp thị, quảng
cáo tác giả và tác
phẩm mà thôi.
Riêng tại nhà chùa
thì nó còn đòi hỏi
cao hơn, nghiêm khắc
hơn thế nữa. Tinh
khí thần chưa đủ.
Thêm chữ và nghĩa
nữa vẫn chưa đủ. Cả
thiện và mỹ nữa, vẫn
chưa đủ. Nó phải có
chất Phật, chất
Thiền. Khi nói đễn
chất Phật thì chư
thư pháp gia có khả
năng nắm bắt được,
thể hiện được. Nhưng
chất Thiền thì rất
nhiều vị phải ngọng
nghịu, ú ớ, phều
phào... Có một số
thư pháp gia viết
chữ Phật, chữ Thiền,
chữ Ngộ, chữ Zen,
chữ Satory, chữ Giác...
để chứng tỏ là có
Thiền! Xin thưa, tâm
sao thì cảnh vậy,
người sao thì chữ
vậy. Thiền không thể
mô phỏng, bắt chước
được. Thiền cũng
không thể khô chết
nơi xác chữ được.
Các vị thiền sư họ
sống với thiền, họ
thở với thiền nên
một nét phẩy, một
nét chấm, một nét
móc, một vòng tròn,
một cọng cỏ lau, một
đám mây trôi, một
giọt sương rơi... tự
nó đã viên mãn. Vì
chúng đầy đủ tinh
khí thần, đầy đủ chữ
và nghĩa, đầy đủ sum
la vạn tượng, tinh
hà nhật nguyệt... Và
rốt cùng, tuyệt bích
và vi diệu nhất là
nó nói được ngôn ngữ
thượng thừa, ngôn
ngữ chân đế, ngôn
ngữ ở ngoài ngôn ngữ.
Để minh hoạ cho điều
vừa nói, tôi xin kể
một câu chuyện về
“tròn” và
“méo” sau đây:
“- Lão sư Eido
Tai Shimano là thư
pháp gia Nhật Bản,
ông lấy cây bút lông
quệt cái vòng tròn –
mà chẳng tròn - rồi
đề hai chữ ‘ viên
tướng’. Lão sư
Kogetsu Tani bèn
bình phẩm, đại lược
rằng: Không nhất
thiết phải tròn.
Thậm chí, hình tam
giác, tứ giác hay
bất cứ cái hình gì
trong phối cảnh tâm
linh thì chúng cũng
đều phải tròn cả.
Trong con mắt thiền,
mọi điều kiện tâm
linh, tâm lý, xúc
cảm, mọi sự, mọi vật
đều hoàn hảo, tự
nhiên như nhiên, như
chân, như thật! Mặt
trăng tròn chứ? Thế
thì cái mặt méo kia
không tròn sao?”
(2)
Thiền “tào lao”,
“bội lý”, “phi lý”
và “gàn dở”
như rứa đó. Ai kham
được nhỉ?
Cuối cùng, cho tôi
xin đươc kết bằng
một bài thơ về chữ
và nghĩa, về bút và
mực:
“ Nghĩa nằm sau
câu chữ,
Bới lửa dưới tàn
tro;
Bút, mực chèo và
chống,
Qua sông chẳng
luỵ đò!”
MINH ĐỨC TRIỀU
TÂM ẢNH
Ghi chú:
(1) Bài tham luận
này được viết ra để
đọc trong buổi hội
thảo về thư pháp
Việt tại chùa Bái
Đính từ 4/3 đến ngày
6/3/2010 – nhưng sau
đó tác giả không
tham dự.
(2) Xem“Ngôn ngữ
Thiền, thư pháp
Thiền” của Eido
Tai Shimano &
Kogetsu Tani - bản
Việt ngữ của Hạnh
Viên, phát hành năm
2000 (Tác giả có
thêm bớt vài chữ
trong lời bình).
|