Lời giới
thiệu của người
dịch
Bài kinh này khá
quan trọng và
tinh tế tuy
nhiên dường như
ít nghe nói đến.
Chữ Aggi
của tựa bài kinh
có nghĩa là ngọn
lửa, và lửa thì
mang tính cách
thiêng liêng
trong đạo
Bà-la-môn cũng
như Ấn Giáo sau
này. Các học giả
Tây Phương
thường xem bản
kinh này là một
trong số các
kinh quan trọng
nêu lên tinh
thần phi-bạo-lực
của Phật Giáo.
Thế nhưng thật
ra nội dung
chính yếu của
kinh cũng chính
là để chống tục
lệ hiến sinh để
tế lễ rất phổ
biến trong đạo
Bà-la-môn.
Vào
thời bấy giờ,
vua chúa, quan
lại, tướng sĩ,
những người buôn
bán giàu có và
các "chủ gia
đình" khá giả
thường bỏ ra
những số tiền
rất lớn để tổ
chức các lễ hiến
sinh nhằm mong
cầu được sống
lâu, sinh con đẻ
cái để nối dõi,
đạt được danh
vọng, lợi lộc,
củng cố quyền
hành, và sau khi
chết thì sẽ được
tái sinh trên
cõi trời, v.v. ,
và các giáo sĩ
Bà-la-môn thì
giữ trọng trách
tổ chức, hành lễ
và cúng tế.
Bản
Việt dịch dưới
đây được dựa vào
bản dịch tiếng
Pháp của Môhan
Wijayaratna
(1988) và bản
dịch tiếng Anh
của Piya Tan
(2003), cả hai
bản dịch này đều
đã được xuất bản
và có thể tìm
thấy trên nhiều
trang mạng.
Bài kinh về
Ngọn lửa
(Aggi-Sutta)
Một lần Đấng Thế
Tôn ngụ tại tu
viện của Cấp Cô
Độc (Anathapindita)
nơi khu vườn Kỳ
Đà Lâm (Jeta)
gần thị trấn Xá
Vệ (Savatthi).
Vào lúc đó có
một vị Bà-la-môn
to béo và giàu
sang
(trong nguyên
bản là
Uggatasarira.
Thật ra đây
không phải là
tên của người
Bà-la-môn này mà
chỉ là một cách
gọi "thân mật"
về một người
Bà-la-môn trong
vùng. Chữ uggata
có nghĩa là rất
giàu sang và bệ
vệ chữ sarira có
nghĩa là thân
thể, chữ
Uggata-sarira có
nghĩa là một
người giàu sang
to béo, tuy
nhiên trong các
đoạn dưới đây sẽ
vẫn giữ cách gọi
người Bà-la-môn
này là
Uggata-sarira để
câu dịch được
ngắn gọn.
Bà-la-môn là
giai cấp cao
nhất trong số
bốn giai cấp
trong xã hội Ấn,
gồm các đạo sĩ
giữ trọng trách
tế lễ, hiến sinh,
thuyết giảng
giáo lý, xử phạt.
Vua chúa, các
chức sắc trong
triều đình,
tướng sĩ, các
người thông thái
biết chữ và dạy
học cũng chỉ
thuộc vào giai
cấp thứ hai)
đang chuẩn bị để
chủ tế một lễ
hiến sinh thật
to. Số súc vật
sắp bị giết gồm
năm trăm con bò
mộng, năm trăm
con bê đực, năm
trăm con bò cái
tơ, năm trăm con
dê cái, năm trăm
con cừu đực,
đang được mang
đến đàn cúng tế
để hiến sinh.
Người Bà-la-môn
Uggata-sarira
bèn đến tham vấn
Đức Phật. Vị này
tiến đến gần Đức
Phật chào hỏi
theo khuôn phép,
trao đổi vài lời
xã giao với Đức
Phật, sau đó thì
lùi lại ngồi
sang một bên.
Người Bà-la-môn
Uggata-sarira
cất lời với Đấng
Thế Tôn như sau:
"Thưa Ngài
Cồ-đàm (Gotama),
tôi được nghe
nói việc đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh là một việc
mang lại nhiều
điều thuận lợi
và thật hữu ích".
Đấng
Thế Tôn đáp lại:
"Này người
Bà-la-môn, ta
cũng được nghe
nói việc đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh là một việc
mang lại nhiều
điều thuận lợi
và thật hữu ích".
Vị
Bà-la-môn
Uggata-sarira
lại cất lời hỏi
Đấng Thế Tôn lần
thứ hai: "Thưa
Ngài Cồ-đàm, tôi
được nghe nói
việc đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh là một việc
mang lại nhiều
điều thuận lợi
và thật hữu ích".
Đấng
Thế Tôn đáp lại:
" Này người
Bà-la-môn, ta
cũng được nghe
nói đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh là một việc
mang lại nhiều
điều thuận lợi
và thật hữu ích".
Người Bà-la-môn
Uggata-sarira
lại cất lời hỏi
Đấng Thế Tôn lần
thứ ba: "Thưa
Ngài Cồ-đàm, tôi
được nghe nói
việc đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh mang lại
nhiều điều thuận
lợi và thật hữu
ích".
Đấng
Thế Tôn đáp lại:
"Này người
Bà-la-môn, ta
cũng được nghe
nói đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh là những
việc mang lại
nhiều điều thuận
lợi và thật hữu
ích".
Vị
Bà-la-môn bèn
nói rằng: "Vậy
thì trong trường
hợp này, chúng
ta đều có cùng
quan điểm! Quan
điểm của tôi và
của Ngài Cồ-đàm
đều như nhau về
vấn đề này!" .
Trong lúc hai
bên đàm đạo thì
Ayasmanta A-nan-đà
(Ayasmanta là
một chữ mang ý
nghĩa tôn kính
dùng để gọi một
vị tỳ kheo ở một
cấp bậc cao)
ngồi bên cạnh
Đức Phật cũng
chăm chú theo
dõi câu chuyện.
Sau
khi nghe người
Bà-la-môn
Uggata-sarira
nói câu ấy, ngài
A-nan-đà bèn cất
lời với người
này như sau:
"Này người
Bà-la-môn, không
được hỏi Đấng
Như Lai bằng
cách: 'Thưa Ngài
Cồ-đàm, tôi được
nghe nói đốt
lửa, dựng đàn
hiến sinh là một
việc mang lại
nhiều điều thuận
lợi và thật hữu
ích, mà phải hỏi
như thế này:
'Thưa Ngài, tôi
đang chuẩn bị
đốt lửa, dựng
đàn hiến sinh.
Mong Đấng Thế
Tôn hãy chỉ dạy
tôi, chỉ dẫn cho
tôi, hầu những
lời dạy bảo ấy
sẽ giúp tôi tìm
được hạnh phúc
và an vui lâu
bền!' "
Vị
Bà-la-môn
Uggata-sarira
bèn mượn những
lời ấy mà lập
lại với Đấng Thế
Tôn: "Thưa Ngài,
tôi đang chuẩn
bị đốt lửa, dựng
đàn làm lễ hiến
sinh. Mong Đấng
Thế Tôn hãy chỉ
dạy tôi, chỉ dẫn
cho tôi, hầu
những lời dạy
bảo ấy sẽ giúp
tôi tìm được
hạnh phúc và an
vui lâu bền!".
Đấng
Thế Tôn bèn dạy
rằng: "Này người
Bả-la-môn, ngay
cả trước khi
việc hiến sinh
bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh cũng đã
vung lên ba
thanh kiếm bất
hạnh, thật tồi
tệ trên phương
diện hữu hiệu,
thật tai hại
trên phương diện
hậu quả. Ba
thanh kiếm ấy là
gì? Đấy là là
thanh kiếm của
những hành động
trên thân xác,
thanh kiếm của
những hành động
ngôn từ, thanh
kiếm của những
hành động tâm
thần.
"Này
người Bà-la-môn,
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh cũng đã làm
hiện ra trong
trí mình các ý
nghĩ như sau:
'Chỉ vì việc
hiến sinh mà
không biết bao
nhiêu con bò
mộng, không biết
bao nhiêu con bê
đực, không biết
bao nhiêu con bò
cái tơ, không
bao nhiêu con dê
cái, không biết
bao nhiêu con
cừu đực phải bị
giết'.
"Đấy
là cách mà người
này tạo ra những
điều thiếu đạo
hạnh, thế nhưng
trong trí thì
lại cứ nghĩ rằng
là mình đạt được
những điều xứng
đáng. Người này
làm một việc tồi
tệ, thế nhưng
lại cứ nghĩ rằng
là mình làm một
điều tốt lành.
Người này tạo ra
một con đường
đưa đến một phần
số bất hạnh, thế
nhưng lại cứ
nghĩ rằng là
mình tạo ra con
đường đưa đến
một kiếp sống
hạnh phúc.
"Này
người Bà-la-môn,
chính vì thế nên
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh cũng đã
vung lên thanh
kiếm thứ nhất là
tác ý, nói lên
một sự ác độc,
thật tồi tệ trên
phương diện hiệu
quả, thật tai
hại trên phương
diện hậu quả.
"Hơn
nữa, này người
Bà-la-môn, ngay
cả trước khi
việc hiến sinh
bắt đầu thì
người đốt lửa
cũng đã thốt
lên: 'Chỉ vì
việc hiến sinh
mà không biết
bao nhiêu con bò
mộng, không biết
bao nhiêu con bê
đực, không biết
bao nhiêu con bò
cái tơ, không
bao nhiêu con dê
cái, không biết
bao nhiêu con
cừu đực phải bị
giết'.
"Đấy
là cách mà người
này tự tạo ra
cho mình những
điều thiếu đạo
hạnh, thế nhưng
lại cứ nghĩ rằng
là mình đạt được
những điều xứng
đáng. Người này
làm một việc tồi
tệ, thế nhưng
lại cứ nghĩ rằng
là mình làm một
điều tốt lành.
Người này tạo ra
một con đường
đưa đến một phần
số bất hạnh, thế
nhưng lại cứ
nghĩ rằng là
mình tạo ra con
đường đưa đến
một kiếp sống
hạnh phúc.
"Này
người Bà-la-môn,
chính vì thế nên
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh đã vung lên
thanh kiếm thứ
hai là các hành
động ngôn từ nói
lên một sự ác
độc, thật tồi tệ
trên phương diện
hiệu quả, thật
tai hại trên
phương diện hậu
quả.
"Và
hơn nữa, này
người Bà-la-môn,
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh đã bắt đầu
ra tay: "Nào hãy
giết các con bò
mộng để hiến
sinh! Nào hãy
giết các con bê
đực để hiến
sinh! Nào hãy
giết các con bò
cái tơ để hiến
sinh! Nào hãy
giết các con dê
cái để hiến
sinh! Nào hãy
giết các con cừu
đực để hiến
sinh! "
"Đấy
là cách mà người
này tự tạo ra
cho mình những
điều thiếu đạo
hạnh, thế nhưng
lại cứ nghĩ rằng
là mình đạt được
những điều xứng
đáng. Người này
làm một việc tồi
tệ, thế nhưng
lại cứ nghĩ rằng
là mình làm một
điều tốt lành.
Người này tạo ra
một con đường
đưa đến một phần
số bất hạnh, thế
nhưng lại cứ
nghĩ rằng là
mình tạo ra con
đường đưa đến
một kiếp sống
hạnh phúc.
"Này
người Bà-la-môn,
chính vì thế nên
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh đã vung lên
thanh kiếm thứ
ba của các hành
động trên thân
xác nói lên một
sự ác độc, thật
tồi tệ trên
phương diện hiệu
quả, thật tai
hại trên phương
diện kết quả.
"Này
người Bà-la-môn,
đấy là cách mà
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh đã vung lên
cả ba thanh kiếm
độc ác, thật tồi
tệ tàn trên
phương diện hiệu
quả, thật tai
hại trên phương
diện kết quả.
"Này
người Bà-la-môn,
có ba ngọn lửa
phải buông bỏ,
phải gạt đi,
phải tránh xa.
Ba ngọn lửa ấy
là gì? Đấy là
ngọn lửa của sự
tham lam, ngọn
lửa của hận thù
và ngọn lửa của
những thứ ảo
giác.
"Này
người Bà-la-môn,
tại sao lại phải
buông bỏ, gạt đi
và tránh xa ngọn
lửa tham lam?
Nếu tâm thức bị
ám ảnh bởi tham
lam, khống chế
bởi tham lam,
say đắm bởi tham
lam, thì sẽ là
cách bước vào
con đường đưa
đến các "hành
động" thân xác
tai hại, các
"hành động" ngôn
từ tai hại, các
"hành động" tâm
thần tai hại. Vì
thế khi cái chết
xảy đến, thân
xác tan rã, thì
sẽ tái sinh
trong cõi địa
ngục, gánh chịu
phần số bất
hạnh, lâm vào
cảnh khốn cùng
nơi địa ngục.
"Này
người Bà-la-môn,
tại sao lại phải
buông bỏ, gạt đi
và tránh xa ngọn
lửa hận thù? Nếu
tâm thức bị ám
ảnh bởi hận thù,
khống chế bởi
hận thù, say đắm
bởi hận thù, thì
sẽ là cách bước
vào con đường
đưa đến các
"hành động" thân
xác tai hại, các
"hành động" ngôn
từ tai hại, các
"hành động" tâm
thần tai hại. Vì
thế khi cái chết
xảy đến, thân
xác tan rã, thì
sẽ tái sinh
trong cõi địa
ngục, gánh chịu
phần số bất
hạnh, lâm vào
cảnh khốn cùng
nơi địa ngục.
"Này
người Bà-la-môn,
tại sao lại phải
buông bỏ, gạt đi
và tránh xa ngọn
lửa của những
thứ ảo giác? Nếu
tâm thức bị ám
ảnh bởi những
thứ ảo giáo,
khống chế bởi
những thứ ảo
giác, say đắm
bởi những thứ ảo
giác, thì sẽ là
cách bước vào
con đường đưa
đến các "hành
động" thân xác
tai hại , các
"hành động" ngôn
từ tai hại, các
"hành động" tâm
thần tai hại. Vì
thế khi cái chết
xảy đến, thân
xác tan rã, thì
sẽ tái sinh
trong cõi địa
ngục, gánh chịu
phần số bất
hạnh, lâm vào
cảnh khốn cùng
nơi địa ngục.
"Quả
thế, này người
Bà-la-môn, phải
buông bỏ ba ngọn
lửa ấy, phải gạt
đi ba ngọn lửa
ấy, phải tránh
xa ba ngọn lửa
ấy.
"[Thế nhưng] này
người Bà-la-môn,
cũng có ba thứ
ngọn lửa mang
lại hạnh phúc
một khi biết
kính trọng, tôn
vinh và sùng
kính các ngọn
lửa ấy. Vậy thì
ba ngọn lửa ấy
là gì? Đấy là
ngọn lửa của
những người xứng
đáng được kính
trọng, là ngọn
lửa của những
người chủ gia
đình và là ngọn
lửa của những
người xứng đáng
nhận được sự
hiến dâng.
"Vậy
ngọn lửa của
những người xứng
đáng nhận được
sự kính trọng là
gì? Này người
Bà-la-môn, hãy
nhìn vào một
người biết tôn
kính mẹ mình và
cha mình. Người
mẹ và người cha
ấy được xem như
"ngọn lửa của
những người đáng
được kính
trọng". Tại sao
lại như thế? Bởi
vì từ nơi họ
ngọn lửa
(của lòng
hiếu thảo)
sẽ bùng lên. Vì
thế nếu biết
kính trọng, tôn
vinh và sùng
kính ngọn lửa
của những người
xứng đáng được
kính trọng ấy,
thì tất sẽ mang
lại hạnh phúc
cho mình.
"Vậy
ngọn lửa của
những người chủ
gia đình là gì?
Này người
Bà-la-môn, hãy
nhìn vào một
người biết cư xử
đúng đắn với vợ
con mình, với
tôi tớ và những
người giúp việc
cho mình, những
người làm công
cho mình. Những
kẻ ấy được xem
như "ngọn lửa
của những người
chủ gia đình".
Vì thế, này
người Bà-la-môn,
nếu biết kính
trọng, tôn vinh
và sùng kính
ngọn lửa của
những người chủ
gia đình ấy, thì
tất sẽ mang lại
hạnh phúc cho
mình.
"Vậy
ngọn lửa của
những người xứng
đáng nhận được
sự hiến dâng là
gì? Này người
Bà-la-môn, những
người tu hành,
các vị đạo sĩ
không hề màng
đến vinh quang
hão huyền, không
kiêu hãnh cũng
không biếng
nhác, đủ sức
chịu đựng được
tất cả, nhưng
lúc nào cũng giữ
được sự kiên
nhẫn và thanh
thản, có lúc thì
bằng cách tự
khắc phục mình,
có lúc thì nhờ
vào thể dạng
thoát tục mà
mình đạt được.
Những người ấy
được xem như
"ngọn lửa của
những người xứng
đáng nhận được
sự hiến dâng".
Vì thế, này
Người Bà-la-môn,
nếu biết kính
trọng, tôn vinh
và sùng kính
ngọn lửa của
những người xứng
đáng nhận được
sự hiến dâng ấy,
thi tất sẽ mang
lại hạnh phúc
cho mình.
"Quả
thế, này người
Bà-la-môn, nếu
biết kính trọng,
tôn vinh và sùng
kính ba ngọn lửa
ấy thì tất sẽ
mang lại hạnh
phúc cho mình.
"Này
người Bà-la-môn,
với một ngọn lửa
cháy lên từ gỗ
thì thỉnh thoảng
phải nhóm lại,
thỉnh thoảng
phải châm thêm
củi, [thế nhưng]
đôi khi nó cũng
tắt, [vì thế]
đôi khi cũng nên
buông bỏ ngọn
lửa ấy".
Sau
khi nghe những
lời trên đây của
Đấng Thế Tôn,
người Bà-la-môn
Uggata-sarira
nói với Đấng Thế
Tôn như sau:
"Thưa Ngài
Cồ-đàm, Tuyệt
vời thay! Thưa
Ngài Cồ-đàm,
Tuyệt vời thay!
Xin Ngài Cồ-đàm
cho phép tôi
được làm người
cư sĩ kể từ hôm
nay và cho đến
cuối cuộc đời
tôi, và tôi xin
được an trú nơi
Ngài Cồ-đàm. "
"Thưa Ngài
Cồ-đàm, tôi sẽ
phóng thích năm
trăm con bò
mộng. Tôi trả
lại sự sống cho
chúng. Tôi sẽ
phóng thích năm
trăm con bê đực,
tôi trả lại sự
sống cho chúng.
"Tôi
sẽ phóng thích
năm trăm con bò
cái tơ, tôi trả
lại sự sống cho
chúng. Tôi phóng
thích năm trăm
con dê cái, tôi
trả lại sự sống
cho chúng. Tôi
phóng thích năm
trăm con cừu
đực, tôi trả lại
sự sống cho
chúng.
"Mong sao những
con vật ấy được
tha hồ gặm cỏ.
Mong sao chúng
được uống thỏa
thích những dòng
suối mát. Mong
sao những cơn
gió heo may thổi
lên vuốt ve thân
xác chúng.
Vài lời ghi
chú của người
dịch
Điểm
đáng lưu ý trước
hết là người
Bà-la-môn
Uggata-sarira
nêu lên ba lần
câu hỏi
"Thưa Ngài
Cồ-đàm, tôi được
nghe nói rằng
việc đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh là một việc
mang lại nhiều
điều thuận lợi
và thật hữu ích",
thế nhưng Đấng
Thế Tôn chỉ lập
lại đúng ba lần
câu hỏi ấy mà
không trả lời gì
cả. Vậy có nghĩa
là gì?
Không trả lời là
một sự yên lặng.
Nếu Đức Phật trả
lời, dù là theo
chiều hướng này
hay chiều hướng
khác, thì tất sẽ
khó tránh khỏi
đưa đến những sự
biện luận và
tranh cải. Lập
lại một câu hỏi
để trả lời cho
một câu hỏi tức
là sự "yên lặng"
vừa lịch sự vừa
kín đáo, phản
ảnh một sự bình
lặng, thanh thản
thật sâu xa
trong tâm thức
của Ngài.
Ngồi
bên cạnh Đấng
Tịch Tĩnh, ngài
A-nan-đà nhận
thấy được ý
nghĩa của sự yên
lặng ấy và hiểu
ngay là câu hỏi
đã được đặt sai
và chỉ là cách
nêu lên một một
chủ đề tranh
cải. Ngài
A-nan-đà bèn
nhắc khéo người
Bà-la-môn và gợi
ý là câu hỏi
phải mang tính
cách tham vấn
thì may ra Đức
Phật sẽ trả lời.
Thật thế Đấng
Thế Tôn đã cho
vị giáo sĩ Bà
la-môn biết
rằng: "...
ngay cả trước
khi việc hiến
sinh bắt đầu thì
người đốt lửa,
dựng đàn hiến
sinh đã vung lên
ba thanh kiếm
độc ác, thật tồi
tệ tàn trên
phương diện hiệu
quả, thật tai
hại trên phương
diện kết quả".
Đấy
cũng là cách mà
Đức Phật đã chận
đứng ngay mọi sự
biện luận có thể
xảy ra nếu đề
cập đến các tác
dụng mang lại từ
việc hiến sinh,
dù là theo chiều
hướng này hay
chiều hướng
khác. Đức Phật
cho thấy rằng
những gì xảy ra
trong giây phút
hiện tại, qua
tâm ý, ngôn từ
và hành động của
người Bà-la-môn
trong lúc chuẩn
bị lễ hiến sinh,
cũng đã đủ để
mang lại khổ đau
cho mình rồi:
"... ngay cả
trước khi việc
hiến sinh bắt
đầu thì người
đốt lửa, dựng
đàn hiến sinh
cũng đã vung lên
cả ba thanh kiếm
độc ác..." ,
nào có cần gì
phải nói đến
hậu quả của
hành động hiến
sinh sau khi đã
thực thi.
Đức
Phật tuyệt nhiên
không hề đề cập
đến những lời
cầu khẩn tham
lam và ích kỷ,
bản chất mua bán
của lễ hỏa thiêu
hàng ngàn con
vật, và nhất là
không nói gì đến
vị Phạm Thiên
tức là vị Trời
Bhrama của những
người Bà-la-môn.
Cái khoảng trống
đó chính là sự
im lặng thứ hai,
sâu xa, thâm
thúy và siêu
việt hơn cả sự
im lặng thứ nhất
là không trả lời
câu hỏi đặt sai
của người
Bà-la-môn
Uggata-sarira.
Điểm
đáng lưu ý thứ
hai là bài kinh
không chấm dứt
với ba sự sai
lầm biểu trưng
bởi ba ngọn lửa
độc ác là tâm ý,
ngôn từ và các
hành động của
người Bà-la-môn
trong khi chuẩn
bị việc hiến
sinh, mà Đức
Phật còn khuyên
người này hãy
chuyển những
ngọn lửa ấy trở
thành những ngọn
lửa của sự kính
trọng, tôn vinh
và sùng kính,
bốc lên từ cha
mẹ mình đã từng
nuôi nấng mình,
từ những người
chủ gia đình
biết chăm lo và
đối xử tử tế với
tôi tớ và những
người làm công
cho mình (thợ
thuyền và nông
dân làm việc cho
mình), từ những
người giáo sĩ
chân chính giảng
dạy cho mình, vì
những người ấy
mới là những
người xứng đáng
để mình hiến
dâng hầu mang
lại hạnh phúc
cho mình, không
cần phải hiến
sinh cho thần
thánh, hay Phạm
Thiên. Cũng xin
mạn phép mượn
dịp để khuyên
những ai còn giữ
truyền thống
cúng giỗ ông bà
cha mẹ, hãy nên
cúng chay, hoặc
cũng chỉ cần một
cành hoa và một
nén hương cũng
đủ, bởi vì ngọn
lửa của sự tưởng
nhớ cũng chỉ có
thể bốc lên bên
trong lòng mình.
Ông bà cha mẹ đã
được chôn hay
hỏa táng với xác
chết của không
biết bao nhiêu
súc vận mà họ đã
ăn khi còn sinh
tiền, vì thế
thiết nghĩ cũng
không nên để họ
phải thưởng thức
thêm xác chết
của các con vật
khác do mình
hiến dâng.
Sau
hết là những câu
cuối trong bài
kinh nhắc lại
từng loài thú
thì đấy cũng là
cách nói lên sự
kính trọng và
quan tâm đến
từng con thú.
Chúng được phóng
thích, tha hồ
gặm cỏ trong
cảnh thiên nhiên
thênh thang,
được uống nước
trong lành từ
những con suối
mát, được những
ngọn gió heo may
thổi lên ve vuốt
thân xác mình.
Hình ảnh đó thật
hết sức tương
phản với những
ngọn lửa nóng
bỏng thiêu đốt
những con thú bị
cột vào những
chiếc cọc hiến
sinh. Chẳng phải
quang cảnh thanh
bình và êm ả của
những con thú
được sống giữa
cảnh thiên niên
trong phần kết
luận đã nói lên
được một cách
thật cụ thể tinh
thần phi-bạo-lực
hiện ra trong
lòng người
Bà-la-môn
Aggata-sarira
sau khi được
nghe Đức Phật
thuyết giảng hay
sao?
Tuyệt vời thay!
Sâu sắc thay!
Một bài kinh
thật giản dị!
Bures-Sur-Yvette,
18.01.15
Hoang Phong
chuyển ngữ
Bài kinh này có
một bản dịch
tiếng Anh do
Piya Tan dịch:
Aguttara Nikya
4.44/4:41-46
Translated by
Piya Tan(2003)
(Uggata,sarira)
Aggi Sutta - The
Discourse on the
fires.
Bản dịch PDF
đính kèm:
Aguttara Nikya
4.44/4:41-46
Translated by
Piya Tan(2003)
(Bản kinh này
trong
Tăng Chi Bộ
Kinh:Anguttara-Nikàya)