Nguyên Giác
Tôi đã lớn lên cùng
với những dòng Bát
Nhã Tâm Kinh. Những
lời sắc bất dị không
đã nghe âm vang như
tiếng mõ ban mai,
như tiếng tim đập
của những ngày vui
và của những đêm
buồn, như tiếng mưa
rơi mái hiên trong
những buổi chiều
ngồi đọc thơ Nguyễn
Du. Tương tự như thế,
tôi cũng say mê Kinh
Pháp Bảo Đàn, trong
đó nhớ nhất là câu
“bản lai vô nhất vật”
-- trước giờ chưa
từng có một vật --
những chữ này làm
sáng rực những trang
kinh, làm tràn ngập
lòng tôi những niềm
vui như trưa nắng
sân chùa. Cho dù,
thú thật, ngay cả từ
thời thơ trẻ, hiểu
chỉ lơ mơ, và tu chỉ
dò dẫm.
Trong tận cùng, sau
này tôi thấy, pháp
Phật chỉ là “không
để tâm dính vào bất
kỳ một pháp nào,”
nghĩa là, như Kinh
Kim Cang nói, ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ
tâm.
Tôi tin Đức Phật dạy
thiên kinh vạn quyển,
chỉ nhằm đưa chúng
sanh qua bờ giải
thoát. Và khi tới bờ
bên kia xong, bè nào
cũng nên buông bỏ --
dù là bè Có, hay bè
Không. Nhưng thực sự,
Kinh Phật đã dạy, hễ
dính chặt vào bè nào,
cũng không qua nổi
bờ bên kia.
Tuy nhiên, muốn qua
sông, tất nhiên phải
cần có bè. Chỉ nói
chuyện bám vào bè mà
bơi thôi, chớ không
dám nói gì tới
chuyện đứng trên bè
đề hiên ngang vượt
sóng qua sông. Bởi
vì chúng ta mang
trên người tập khí
trăm kiếp nghìn đời,
nay cơ may gặp Phật
pháp, nếu sơ xẩy là
bị cuốn theo dòng
sinh tử liền.
Nhiều thập niên sau,
tôi ngạc nhiên khi
nhận ra một số người
dị ứng với Bát Nhã
Tâm Kinh và Kinh
Pháp Bảo Đàn. Lý do,
họ nói, vì không nằm
trong Tạng Pali. Tất
nhiên. Nhưng, tuyên
thuyết lại lời Đức
Phật có gì là không
nên, nếu chúng ta có
thể làm ngắn gọn hơn,
dễ hiểu hơn, dễ tiếp
cận hơn đối với một
số độc giả? Tôi
nghĩ, mình sẽ đọc
lại, nhưng bản thân
lại không có năng
khiếu về ngôn ngữ.
Tôi vẫn thán phục
những người giỏi
nhiều thứ tiếng,
nhưng mình thì không
thể như thế, vì
riêng tiếng Việt, tự
thấy học trọn cả đời
vẫn chưa tới đâu. Do
vậy, tôi chọn cách
đơn giản hơn: tìm
đọc bằng tiếng Anh;
một phần vì, hiện
nay đã có nhiều bản
Anh dịch, và có thể
đối chiếu với nhau.
Thế là, tôi trở
thành một học trò
cặm cụi, gõ cửa
nhiều vị thầy.
Điều thấy được là:
Không có gì bí mật,
Bát Nhã Tâm Kinh đã
nằm sẵn trong Kinh
Pali. Và đây là một
dạng cô đọng của
thiên kinh vạn quyển.
*
Một thời, tôi say mê
đọc, say mê học, say
mê ngồi thiền... và
lúng túng giữa những
rừng chữ nghĩa (Bây
giờ, cũng lắm khi
lúng túng, nhưng đỡ
hơn, có lẽ). Trong
cơ may nhiều thập
niên trước, khi gặp
hai vị thiền sư già,
thế là, lại bị xô
đẩy vào những trận
đồ chữ nghĩa rất mực
cô đọng, rất mực
kiệm lời.
Thầy Tịch Chiếu nói
rằng, phảỉ thấy Tánh
trước rồi mới tu.
Nhưng hỏi Tánh là
gì, lại nói rằng nói
là gì cũng đều không
phải.
Vị sư đệ của Thầy
là nhà sư Thường
Chiếu nói rằng phải
bước lên sào cao
trăm trượng, rồi
bước thêm một bước.
Nhiều năm sau, tôi
nghĩ rằng như thế là
phảỉ tu giới định
huệ cho tới đỉnh
cao, rồi bước vào
Tánh Không. Tôi tự
nghĩ, phảỉ chăng đó
là buông xả hết?
Hay, câu hỏi là, khi
mang đủ thứ trăm
công ngàn hạnh, làm
sao leo tới đỉnh cao
cho đặng? Vô số câu
hỏi.
Sau này, khi vững
tiếng Anh, tôi đọc
sách của ngài Đạt
Lai Lạt Ma và Ajahn
Chah, và tôi nghĩ
rằng thế là đã hiểu
được hai nhà sư già
mình có cơ duyên
theo học hồi thơ trẻ
(thú thật, cũng có
phẩn là đoán, vì bản
thân mình, tu tập
chẳng phảỉ là siêu
đẳng).
*
Trong Kinh Pháp Bảo
Đàn, có nói về hai
cách tiếp cận. Một
đi từ Có, và một đi
từ Không -- nằm
trong hai bài kệ.
Bài kệ của Tổ
Thần Tú là:
Thân thị bồ đề
thọ
Tâm như minh
kính đài
Thời thời thường
phất thức
Vật sử nhá trần
ai
Bản dịch của
Thiền Sư Thanh
Từ:
Thân như cây
bồ-đề,
Tâm như đài
gương sáng.
Luôn luôn phải
lau chùi,
Chớ để dính bụi
nhơ.
Và bài kệ của
Lục Tổ Huệ Năng:
Bồ đề bổn vô thọ
Tâm phi minh
kính đài
Bản lai vô nhất
vật
Hà xứ nhá trần
ai.
Bản dịch của
Thiền Sư Thanh
Từ:
Bồ-đề vốn không
cây,
Gương sáng cũng
chẳng đài.
Xưa nay không
một vật,
Chỗ nào dính bụi
nhơ?
Bản lai vô nhất
vật... câu này đã
theo tôi mãi nhiều
năm. Xưa nay không
một vật, xưa nay
không một ai, xưa
nay không một sắc,
xưa nay không một
thọ, xưa nay không
một tưởng, và vân
vân. Nhìn thấy thực
tướng là không một
vật, không một pháp,
và không hề có một
ngã tướng nào. Ngắn
gọn, thế giới này
vốn thật là tất cả
những gì được thấy,
những gì được nghe,
những gì được cảm
tri... đều là những
gì hiện lên trong
tâm, nghĩa là bất kỳ
cảnh nào cũng là
tâm.
Tuy nhiên, tâm lại
không nằm ở bất kỳ
nơi nào, dù là nơi
mắt, nơi tai, hay
nơi được thấy hay
nơi được nghe. Chính
nơi đây, tánh không
đã và đang hiển lộ.
Nơi tất cả những cái
được thấy, những cái
được nghe... là cái
không đó hiển hiện,
bao trùm, nối kết, y
hệt như -- lời Thầy
Tịch Chiếu thường
dạy cho học trò,
rằng tánh các pháp
là bình đẳng, rằng
bột vẫn là bánh, bất
kể mọi loại bánh mặn
ngọt cay chua; rằng
vàng vẫn là nữ
trang, bất kể xuyến
thoa nhẫn vòng; rằng
tánh sáng của gương
vẫn rực rỡ bất động,
bất kể mọi ảnh tròn
vuông xanh đỏ tím
vàng; rằng tánh ướt
của nước vẫn nhuần
thấm, bất kể mọi bọt
sóng lớn nhỏ đục
trong. Nơi đó cũng
là vô thường, là vô
ngã, là bất an.
Chính cái không đó
xuyên suốt các pháp,
làm cho thế giới là
một dòng chảy của vô
thường, của vô ngã,
của bất an. Không
một pháp nào rời
tâm, nhưng tâm không
phải là bất cứ gì.
Nói khác, không một
pháp nào rời không,
nhưng cái không đó
lại không phải là
bất cứ gì. Tuyệt vời
là như thế. Và chỉ
từ cái chứng ngộ về
không tánh này, từ
bi chơn thực mới
khởi lên, khi nhìn
thấy mình và người
đang cùng bị cuốn
trôi trong dòng chảy
của tánh không,
trong dòng chảy của
vô thường, của vô
ngã, của bất an.
Ngẩng đầu lên khỏi
trang kinh, là thấy
một thời tuổi trẻ
bay đi, một đời
người sắp tắt, và
rất nhiều người bạn
đã bị cuốn trôi qua
đời khác.
Tôi đã sững sờ ngồi
trước các trang
kinh, và nhìn thấy
những dòng kinh biến
hẳn đi như dường chỉ
còn là các trang
giấy trắng, bất kể
mọi người quanh mình
đang tụng đều theo
tiếng mõ... sắc bất
dị không, không bất
dị sắc.
*
Có phải Đức Phật đã
từng dạy rằng phải
Thấy Tánh trước, rồi
mới thuận tánh mà
tu? Đúng vậy. Đức
Phật đã dạy về vô
thường, về vô ngã,
về bất an.
Đúng vậy. Đức Phật
cũng đã dạy “Bản lai
vô nhất vật...” và
Lục Tổ Huệ Năng chỉ
tuyên thuyết lại lời
Đức Phật -- với một
cách riêng.
Trong Tiểu Bộ Kinh,
Sn 5.15, Đức Phật
dạy rằng hãy quán
sát các pháp là
không, rằng không hề
có một ngã nào. Nơi
kinh này, Đức Phật
nói rằng Không chính
là Vô Ngã.
Bài kinh
“Mogharaja-manava-puccha:
Mogharaja's
Question” có đoạn
ghi lời Đức Phật trả
lời Mogharaja như
sau:
“[Mogharaja]
... Con tới với một
câu hỏi: Phải quán
sát thế giới như thế
nào để không bị Thần
Chết nhìn thấy?
[Đức Phật]
Mogharaja, hãy luôn
luôn tỉnh thức, nhìn
thế giới như là rỗng
không, gỡ bỏ bất kỳ
cái nhìn nào về ngã.
Với cách như thế,
con sẽ đứng trên và
vượt qua cái chết.
Người nào nhìn thế
giới này như thế sẽ
không bị Thần Chết
nhìn thấy.”
(1)
Như thế, trong bài
kinh trên, chữ Không
được hiểu như là
không thấy cái gì là
ngã. Khi quán sát
tất cả thế giới này
là Không như thế, ai
nói đây không phải
là Bát Nhã Tâm Kinh,
không phảỉ là bản
lai vô nhất vật?
*
Nơi một số kinh
khác, Đức Phật đã
nói chi tiết hơn,
chỉ cách quán sát
các pháp để thấy như
thế.
Dẫn trường hợp một
kinh trong Tương Ưng
Bộ, SN 35.85, kinh
“Suñña Sutta:
Empty,” lúc đó, ngài
Ananda hỏi thế nào
để nhìn thấy thế
giới là rỗng không.
Đức Phật trả lời
rằng nên thấy mắt
(nhãn) là không tự
ngã, nhãn thức là
không tự ngã, nhãn
xúc cũng thế, và vân
vân.
Văn kinh này nghe âm
vang như Tâm Kinh
Bát Nhã.
Nơi đây, Việt dịch
theo bản Anh dịch
của sư Thanissaro
Bhikkhu như sau:
“Kế tiếp, ngài
Ananda tới gặp Đức
Phật, đảnh lễ, ngồi
một bên. Khi ngài
ngồi, rồi nói với
Đức Phật: “Bạch Đức
Phật, thế giới này
được nói là rỗng
không, thế giới rỗng
không. Như thế nào,
thế giới là rỗng
không?”
“Ananda, bởi vì nó
không có tự ngã,
không có bất cứ gì
liên hệ tới một tự
ngã. Do vậy, nó
được nói rằng thế
giới này rỗng không.
Và cái gì không có
ngã hay không có bất
cứ thứ gì liên hệ
tới một tự ngã? Mắt
không có một tự ngã,
không có bất cứ thứ
gì liên hệ tới một
tự ngã. Sắc (Lời
Người Dịch: forms,
cái hiện ra với mắt
tai mũi lưỡi thân
ý)... Nhãn thức...
Nhãn xúc cũng không
có tự ngã, cũng
không có bất cứ thứ
gì liên hệ tới tự
ngã.
“Tai (nhĩ) rỗng
không... Mũi (tỷ)
rỗng không... Lưỡi
(thiệt) rỗng
không... Thân rỗng
không... Ý rỗng
không, không có tự
ngã nào, không liên
hệ tới tự ngã nào.
Niệm... Thức... Ý
thức giới rỗng
không, không có tự
ngã nào, không liên
hệ tới tự ngã nào.
Do vậy, được nói
rằng thế giới này là
không.”
(2)
Trong bài kinh trên,
có gì khác với Bát
Nhã Tâm Kinh? Có gì
khác với câu bản lai
vô nhất vật?
*
Như thế, Đức Phật đã
dùng nhiều cách nói
– khi nói ngắn gọn,
khi nói chi tiết.
Như thế, Đức Phật có
lúc nói ngắn gọn
trong vấn đáp với
chàng trai Mogharaja
rằng hãy luôn tỉnh
thức và nhìn thế
giới như rỗng không,
có lúc nói chi tiết
với ngài Ananda rằng
hãy thấy mắt tai mũi
lưỡi thân ý là rỗng
không.
Và có lúc, Đức Phật
còn nói nhiều hơn
nữa về pháp nhìn vào
Tánh Không của các
pháp.
Đó là trong kinh SN
22.95, Tương Ưng Bộ
Kinh, bản kinh
“Phena Sutta: Foam,”
theo bản Anh dịch
của sư Thanissaro
Bhikkhu.
Đức Phật sẽ giáỉ
thích rằng
sắc chính là không,
dụ như chùm bọt sóng
(có phải, nói ngắn
gọn là:
sắc bất dị không?);
rồi nói thọ chính là
không, dụ như bọt
nước; rồi nói tưởng
chính là không, dụ
như ráng nắng; tương
tự với tưởng, hành,
thức...
Kinh này rất dài,
nên nơi đây sẽ chỉ
một đoạn kinh,
trích:
“Một lần, Đức Phật
tới với những người
dân thành phố
Ayojjha bên bờ Sông
Hằng. Nơi đó, Ngài
nói với các sư: Các
sư, giả như một chùm
bọt sóng lớn đang
trôi trên sông Hằng,
và một người mắt
sáng thấy nó, quán
sát nó và khảo sát
nó đúng pháp. Với
người này -- thấy
nó, quan sát nó &
khảo sát nó đúng
pháp – nó sẽ hiện ra
là rỗng, là không,
là không có gì hết:
vì làm gì có cái gì
trong chùm bọt sóng
đó chớ? Cùng một
cách như thế, một vị
sư nhìn thấy, quan
sát & khảo sát đúng
pháp bất kỳ sắc nào
trong quá khứ, tương
lai, hay hiện tại;
dù là trong hay
ngoài; hiển hiện hay
mơ hồ; bình dân hay
tôn quý; gần hay xa.
Đối với vị này –
nhìn thấy, quan sát
& khảo sát nó đúng
pháp – nó sẽ hiện ra
là rỗng, là không,
là không có gì hết:
vì làm gì có cái gì
trong cái sắc đó
chớ?”
(3)
Thế rồi, trong kinh
này, Đức Phật dạy
tiếp rằng, sau khi
nhìn thấy tất cả các
pháp là không, người
tu sẽ không dính gì
tới sắc thọ tưởng
hành thức nữa, và
được giải thoát,
“Sanh đã tận, thánh
hạnh đã hoàn tất,
việc đã xong. Không
còn gì nữa trong thế
giới này.
Sau khi nói như thế
xong, cũng trong
kinh này, Đức Phật
nhắc lại rằng phải
nhìn thấy sắc như
chùm bọt nước, thọ
như bọt sóng, tưởng
như ráng nắng, hành
như cây chuối (trong
lõi cây chuối không
có gì hết), thức như
trò ảo thuật. Phải
thấy rằng, kinh vừa
dẫn viết:
“[trong
các pháp] vốn thật
không có gì hết. Do
vậy, các sư phải
liên tục quán sát
các uẩn suốt cả ngày
và đêm, phải tỉnh
thức, cảnh giác;
phải buông bỏ mọi
phiền não; phải tự
lấy mình làm nơi an
trú cho mình; phải
sống hệt như lửa
cháy trên đầu -- với
khát vọng tu học
không lui sụt.”
(3)
Đó là những dòng chữ
Pali của Bát Nhã Tâm
Kinh, của Pháp Bảo
Đàn Kinh... là sắc
bất dị không, là bản
lai vô nhất vật.
*
Tuy nhiên, chúng
sinh lúc nào cũng dễ
rơi vào bẫy của chữ
nghĩa.
Khi Đức Phật dạy
rằng cõi này là khổ,
là bất như ý, là bất
an... chúng ta lại
dễ vin vào chữ Có.
Khi Đức Phật dạy
rằng cõi này vốn
thật là không...
chúng ta lại dễ vin
vào chữ Không.
Thế là Đức Phật lại
mệt nhọc giảỉ thích
rằng chớ vin vào Có
hay Không, nói rằng
pháp Đức Phật dạy là
trung đạo, xa lìa có
và không, đừng dính
vào một pháp nào
hết.
Ngắn gọn: khi niệm
khởi thì hãy thấy có
niệm khởi, và khi
niệm diệt xong thì
hãy thấy là đang
lặng lẽ nơi này;
rằng khi thấy, chỉ
là cái được thấy;
rằng khi nghe, chỉ
là cái được nghe. Và
như thế, là xa lìa
cả có và không.
Cụ thể, dẫn một bài
kinh khác trong
Tương Ưng Bộ, SN
12.15, nhan đề
“Kaccayanagotta
Sutta: To Kaccayana
Gotta,” bản Anh dịch
của sư Thanissaro
Bhikkhu.
Lúc đó là ở thành
phố Savatthi, Đại sư
Kaccayana Gotta hỏi
Đức Phật rằng thế
nào là chánh kiến.
Tức là muốn hỏi về
cái nhìn chân chánh.
Đức Phật trả lời
rằng, trích dịch:
“Sư Kaccayana, thế
giới này bị nhìn như
là đối cực, là có và
không. Nhưng khi sự
tập khởi của thế
giới được nhìn với
chánh kiến, người
này sẽ không chấp
vào ‘không.’ Khi sự
đoạn diệt của thế
giới được nhìn với
chánh kiến, người
này sẽ không chấp
vào ‘có.’
“Sư Kaccayana, thế
giới này bị buộc vào
chấp thủ, quyến
luyến và thiên kiến.
Nhưng người nào
không trụ vào bất kỳ
một quyến luyến nào,
không dính vào một
kiến chấp nào, không
thiên kiến hay không
bị lôi kéo bởi cảm
thọ nào; mà cũng
không lưu giữ ‘cái
tôi’ nào. Người này
thấy rõ, không ngờ
vực gì: khi khổ
sanh, là thấy khổ
sanh; khi khổ diệt,
là thấy khổ diệt.
Trong cái nhìn này,
người này tự nhìn
thấy, không dựa vào
ai. Sư Kaccayana,
như thế là chánh
kiến.”
(4)
Bởi vậy, Ngài Trần
Nhân Tông mới có thơ
rằng, hễ dính vào
câu Có, câu Không...
đều hệt như lấy
tuyết làm nón, như
lấy hoa làm giày,
như ôm gốc cây đợi
thỏ.
*
Thêm một câu hỏi,
nếu phải xông xáo
trong đời, trọn ngày
thấy đủ thứ cảnh
trước mắt và nghe
đủ thứ chuyện bên
tai... làm thế nào
có thể an trú trong
tánh không? Hãy hình
dung, bạn đang tham
dự trong một lễ hội
(có phải đời này là
những chuỗi ngày lễ
hội?). Không lẽ đi
tìm một góc núi, một
ven rừng... Đức Phật
cũng đã dạy pháp ứng
phó này, khi giữ tâm
an trú trong tánh
không giữa những xao
động trong đời.
Nơi đây, chúng ta
dẫn ra một kinh ở
Trung Bộ, MN 121,
nhan đề kinh là
“Cula-suññata Sutta:
The Lesser Discourse
on Emptiness,” bản
Anh dịch của sư
Thanissaro Bhikkhu.
Lúc đó, Đức Phật tới
thành phố Savatthi,
nơi Đông Viên, trong
lâu đaì của mẹ của
Migara. Ngài Ananada
đảnh lễ Đức Phật,
nói rằng có một lần,
khi Đức Phật ở thị
trấn Nagaraka, giữa
những người Sakyan,
có nghe Đức Phật
nói, “Ta bây giờ an
trú toàn phần trong
tánh không.”
Đức Phật nói đúng là
thế, Ananda nghe
đúng là thế, “và bây
giờ cũng như lúc đó,
ta an trú toàn phần
trong tánh không.”
Chúng ta có thể hình
dung rằng, Đức Phật
tới nơi nào cũng
được tiếp đón cung
kính, cho nên chung
quanh là đông vô số
kể. Thí dụ, như
trong lâu đài của mẹ
của Migara, là có
rất nhiều voi, ngựa,
vàng bạc, người nam,
người nữ... Vậy thì,
làm sao an trú trong
tánh không được?
Đức Phật nói:
“Đúng vậy, Ananda,
ngươi đã nghe đúng,
học đúng, chú tâm
đúng, nhớ đúng. Bây
giờ, cũng như trước
kia, ta an trú toàn
bộ trong tánh không.
Giả như lâu đài này
của mẹ của Migara
không có con voi
nào, không có gia
súc, không có con
lừa nào, không có
vàng bạc, không có
đông đảo người nam
và người nữ, và chỉ
có một “cái có” thôi
– đó là tính đơn
nhất của tăng đoàn;
ngay cả thế, hỡi
Ananda, một vị sư –
không chú tâm vào
niệm về ngôi làng,
không chú tâm vào
người -- chỉ chú tâm
vào tính đơn nhất
của cảnh vườn hoang
dã. Tâm người này có
niềm vui, thấy sảng
khoái, an trú trong
niệm tưởng về cảnh
vườn hoang dã.
“Người này quán sát
rằng ‘Bất cứ xao
động nào lẽ ra khởi
lên dựa vào niệm
tưởng về ngôi làng
đã không khởi lên.
Bất cứ xao động nào
lẽ ra khởi lên dựa
vào niệm tưởng về
người đã không khởi
lên. Chỉ có một chút
xao động nhỏ này
thôi: sự đơn nhất
dựa vào niệm tưởng
về cảnh vườn hoang
dã.’ Người này nhìn
thấy rằng ‘Pháp niệm
tưởng này làm trống
vắng niệm tưởng về
ngôi làng. Pháp niệm
tưởng này làm trống
vắng niệm tưởng về
người. Chỉ còn duy
nhất một cái “có”
nơi đây: tính đơn
nhất dựa vào niệm
tưởng về cảnh vườn
hoang dã.’ Do vậy
người này xem nó như
trống vắng bất cứ
những gì không ở đó.
Bất cứ những gì còn
lại, người này xem
nó như hiện diện:
‘Có cái này.’ Và do
vậy, người này an
trú vào không, thuận
với thực tại, không
dao động trong ý
nghĩa nào, và tâm
được thanh tịnh.”
(5)
Tuần tự, Đức Phật
giải thích, với cách
như thế, người này
rời bỏ niệm tưởng về
cảnh vườn hoang dã,
rồi chỉ niệm tưởng
về tính đơn nhất của
mặt đất phẳng (không
có sông, suối,
đồi... gì), rồi tới
niệm tưởng về tính
vô tận của không
gian, rồi tính vô
tận của thức, rồi
pháp không
(nothingness), rồi
phi tưởng phi phi
tưởng (Neither
Perception nor
Non-Perception), rồi
tới pháp định
không-đề-mục
(Theme-Less
Concentration), và
kế tiếp là giảỉ
thoát (Release).
Có cách nào tóm gọn
bài kinh này không?
Cuối bài kinh này,
Đức Phật tóm gọn cho
ngài Ananda rằng:
“Vị sư này thấy rằng
‘Bất cứ xao động nào
do duyên vào dục
lậu... duyên vào
sanh hữu lậu...
duyên vào vô minh
lậu, bây giờ không
có mặt nơi đây. Và
chỉ còn một chút xao
động: do duyên vào
lục nhập (mắt tai
mũi...), duyên vào
thân này. Sư này
nhận ra rằng ‘Niệm
tưởng này không có
dục lậu... không có
sanh hữu lậu...
không có vô minh
lậu. Và chỉ có một
cái ‘có’ này thôi:
duyên vào lục nhập,
duyên vào thân này.’
Do vậy, sư này xem
nó như trống vắng
bất cứ những gì
không có ở đó. Bất
cứ những gì còn lại,
sư này nhìn thấy nó
là hiện hữu: “Có cái
này.’ Và như thế,
tâm vị sư này thâm
nhập vào pháp không,
thuận với thực tại,
nghĩa chẳng sai
lệch, thanh tịnh --
tối thắng và cứu
cánh giải thoát...
Do vậy, Ananda,
ngươi hãy tự tu tập
rằng: “Chúng ta sẽ
vào và an trú trong
tánh không, nơi đó
là thanh tịnh, tối
thắng và cứu cánh
giải thoát.”
(5)
*
Có một cảnh giác cần
ghi nhận. Rằng trong
khi tu học, khi tâm
đã buông xả hết các
pháp, tâm sẽ bất
động và an trú được
trong lặng lẽ thanh
tịnh. Lúc đó, nếu
quyến luyến cảnh
giới thanh tịnh này,
là hỏng.
Đức Phật cảnh giác
trong Kinh Trung Bộ,
MN 106, tựa đề
“Aneñja-sappaya
Sutta: Conducive to
the Imperturbable.”
Đức Phật nói với
Ngài Ananda:
“Vị
sư này không quyến
luyến cảnh giới lặng
lẽ thanh tịnh đó,
không hoan nghênh
nó, không để bị buộc
trong cảnh giới đó,
thức của vị này
không duyên vào nó,
không chấp trước vào
nó (không an trú
trong nó). Ananda,
không dính vào đâu
hết, tâm vô sở
trụ... thì mới hoàn
toàn giải thoát.”
(6)
Chỗ này, chúng ta
lại thấy y hệt Kinh
Kim Cang: Ngay cả
khi tâm có chỗ trụ,
dù là cảnh giới
thanh tịnh nào đi
nữa, cũng là hỏng.
Như thế, cốt tủy là
‘bản lai vô nhất
vật’ và ngay cả khi
sống được với cái
‘không hề có một
pháp nào’ như thế,
cũng chớ nên dính
chấp vào cái không
này.
Và như thế, ý nghĩa
của Bát Nhã Tâm Kinh
khi bác bỏ cả Tứ Đế
(vô khổ tập diệt
đạo), bác bỏ cả Lục
Độ (vô trí, diệc vô
đắc) chỉ là tuyên
thuyết lại lời Đức
Phật trong Kinh
Trung Bộ MN 106,
rằng tận cùng thì,
chớ dính vào một
pháp nào hết, rằng
phải bước thêm một
bước từ sào cao trăm
trượng, rằng bè nào
rồi cũng phải quăng
bỏ thôi...
Nguyên Giác
GHI CHÚ:
(1)
The Buddha: Always
mindful, Mogharaja,
regard the world as
empty, having
removed any view in
terms of self. This
way one is above and
beyond death. One
who regards the
world in this way
isn't seen by
Death's King. (link:
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.5.15.than.html
)
Bản Việt ngữ. Kinh
Tập. Chương Năm -
Phẩm Con Đường Đến
Bờ Bên Kia
http://thuvienhoasen.org/p15a1548/chuong-05-tren-duong-den-bo-ben-kia
)
(2) Then Ven.
Ananda went to the
Blessed One and on
arrival, having
bowed down to him,
sat to one side. As
he was sitting there
he said to the
Blessed One, "It is
said that the world
is empty, the world
is empty, lord. In
what respect is it
said that the world
is empty?"
"Insofar as it is
empty of a self or
of anything
pertaining to a
self: Thus it is
said, Ananda, that
the world is empty.
And what is empty of
a self or of
anything pertaining
to a self? The eye
is empty of a self
or of anything
pertaining to a
self. Forms...
Eye-consciousness...
Eye-contact is empty
of a self or of
anything pertaining
to a self.
"The ear is empty...
"The nose is
empty...
"The tongue is
empty...
"The body is
empty...
"The intellect is
empty of a self or
of anything
pertaining to a
self. Ideas...
Intellect-consciousness...
Intellect-contact is
empty of a self or
of anything
pertaining to a
self. Thus it is
said that the world
is empty."
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn35/sn35.085.than.html#answer
Bản Việt ngữ là Kinh
Tương Ưng. HT Thích
Minh Châu dịch. 85.
II. Trống Không
(S.iv,54)
http://thuvienhoasen.org/a705/35-chuong-i-tuong-ung-sau-xu
(3) Bản Anh
ngữ: “On one
occasion the Blessed
One was staying
among the Ayojjhans
on the banks of the
Ganges River. There
he addressed the
monks: "Monks,
suppose that a large
glob of foam were
floating down this
Ganges River, and a
man with good
eyesight were to see
it, observe it, &
appropriately
examine it. To him —
seeing it, observing
it, & appropriately
examining it — it
would appear empty,
void, without
substance: for what
substance would
there be in a glob
of foam? In the same
way, a monk sees,
observes, &
appropriately
examines any form
that is past,
future, or present;
internal or
external; blatant or
subtle; common or
sublime; far or
near. To him —
seeing it, observing
it, & appropriately
examining it — it
would appear empty,
void, without
substance: for what
substance would
there be in form?”
(link:
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.095.than.html
)
“No substance here
is found. Thus a
monk, persistence
aroused, should view
the aggregates by
day & by night,
mindful, alert;
should discard all
fetters; should make
himself his own
refuge; should live
as if his head were
on fire — in hopes
of the state with no
falling away.” (link
như trên)
Bản Việt ngữ, do HT
Thích Minh Châu dịch
Việt:
http://thuvienhoasen.org/a691/22-chuong-i-tuong-ung-uan
(4) "By &
large, Kaccayana,
this world is
supported by (takes
as its object) a
polarity, that of
existence &
non-existence. But
when one sees the
origination of the
world as it actually
is with right
discernment,
'non-existence' with
reference to the
world does not occur
to one. When one
sees the cessation
of the world as it
actually is with
right discernment,
'existence' with
reference to the
world does not occur
to one.
"By & large,
Kaccayana, this
world is in bondage
to attachments,
clingings
(sustenances), &
biases. But one such
as this does not get
involved with or
cling to these
attachments,
clingings, fixations
of awareness,
biases, or
obsessions; nor is
he resolved on 'my
self.' He has no
uncertainty or doubt
that just stress,
when arising, is
arising; stress,
when passing away,
is passing away. In
this, his knowledge
is independent of
others. It's to this
extent, Kaccayana,
that there is right
view. (Link:
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn12/sn12.015.than.html
)
Bản Việt ngữ. XV.
Kaccàyanagotta:
(Ca-chiên-diên Thị).
http://thuvienhoasen.org/p15a621/2/12-chuong-i-tuong-ung-nhan-duyen
(5) [The
Buddha:] "Yes,
Ananda, you heard
that correctly,
learned it
correctly, attended
to it correctly,
remembered it
correctly. Now, as
well as before, I
remain fully in a
dwelling of
emptiness. Just as
this palace of
Migara's mother is
empty of elephants,
cattle, & mares,
empty of gold &
silver, empty of
assemblies of women
& men, and there is
only this
non-emptiness — the
singleness based on
the community of
monks; even so,
Ananda, a monk — not
attending to the
perception of
village, not
attending to the
perception of human
being — attends to
the singleness based
on the perception of
wilderness. His mind
takes pleasure,
finds satisfaction,
settles, & indulges
in its perception of
wilderness.
"He discerns that
'Whatever
disturbances that
would exist based on
the perception of
village are not
present. Whatever
disturbances that
would exist based on
the perception of
human being are not
present. There is
only this modicum of
disturbance: the
singleness based on
the perception of
wilderness.' He
discerns that 'This
mode of perception
is empty of the
perception of
village. This mode
of perception is
empty of the
perception of human
being. There is only
this non-emptiness:
the singleness based
on the perception of
wilderness.' Thus he
regards it as empty
of whatever is not
there. Whatever
remains, he discerns
as present: 'There
is this.' And so
this, his entry into
emptiness, accords
with actuality, is
undistorted in
meaning, & pure.”
...
"He discerns that
'Whatever
disturbances that
would exist based on
the effluent of
sensuality... the
effluent of
becoming... the
effluent of
ignorance, are not
present. And there
is only this modicum
of disturbance: that
connected with the
six sensory spheres,
dependent on this
very body with life
as its condition.'
He discerns that
'This mode of
perception is empty
of the effluent of
sensuality...
becoming...
ignorance. And there
is just this
non-emptiness: that
connected with the
six sensory spheres,
dependent on this
very body with life
as its condition.'
Thus he regards it
as empty of whatever
is not there.
Whatever remains, he
discerns as present:
'There is this.' And
so this, his entry
into emptiness,
accords with
actuality, is
undistorted in
meaning, pure —
superior &
unsurpassed....
Therefore, Ananda,
you should train
yourselves: 'We will
enter & remain in
the emptiness that
is pure, superior, &
unsurpassed.'"
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.121.than.html#fn-1
Bản Việt ngữ.
Trung Bộ. 121. Kinh
Tiểu không
(Cùlasunnata sutta)
http://thuvienhoasen.org/a985/121-kinh-tieu-khong-culasunnata-sutta
(6) He does
not relish that
equanimity, does not
welcome it, does not
remain fastened to
it. As he does not
relish that
equanimity, does not
welcome it, does not
remain fastened to
it, his
consciousness is not
dependent on it, is
not sustained by it
(does not cling to
it). Without
clinging/sustenance,
Ananda, a monk is
totally unbound."
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.106.than.html
Bản Việt ngữ.
106. Kinh Bất động
lợi ích
http://thuvienhoasen.org/a927/106-kinh-bat-dong-loi-ich-anenjasappaya-sutta
|