Minh Đức Triều Tâm
Ảnh
Có một “truyện cổ
Khờ-me”, như sau:
“- Ngày xửa, ngày
xưa có ông vua, một
đấng minh quân, cùng
với mấy vị quan
trọng thần rong
thuyền ngoạn du sông
nước. Trời nắng như
đổ lửa, dòng nước
ngược chảy xiết nên
những người phu chèo
đầm đìa mồ hôi, mặt
mũi đỏ au, ráng tận
sức lực để chèo đẩy
con thuyền đi.
Nhìn mấy vị quan
cận thần của vua nằm
thung dung trong mái
che, có mấy cô thị
nữ đẹp như tiên nga
hầu trà rượu, anh
trưởng phu chèo phơi
mình giữa cái nắng
nóng như thiêu đốt,
tựa hồ ngồi trong
chảo rang, tức giận
nói nhỏ với người
bên cạnh:
- Thật chẳng công
bằng chút nào cả.
Mình cũng là người
như họ, cũng là thần
dân của vua, nhưng
sao mình khổ thế này
mà họ lại sướng thế
cơ chứ?
Tiếng ấy tuy nhỏ
nhưng nhà vua nghe
được. Khi thuyền ghé
bến một ngôi đền
nguy nga, tráng lệ,
mọi người được nghỉ
để dùng cơm trưa.
Vua và các quan
trọng thần được ăn
những món sơn hào
hải vị, còn những
phu chèo thì mỗi
người tự lôi ra một
đùm cơm với thức ăn
khô trộn mắm sẵn.
Anh trưởng phu chèo
lại bực mình, nói
nhỏ:
- Xem họ kìa! Một
bữa ăn của họ, mình
dành dụm một năm
không ăn thua! Sao
bất công vậy trời!
Vô tình, tiếng
nói ấy cũng lọt vào
tai vua. Lát sau,
bỗng có tiếng ồn ào
rồi có tiếng một bầy
chó sủa vang inh.
Vua đã có dụng ý nên
đi đến nói nhỏ với
người trưởng phu:
- Ngươi hãy lên
trên đó xem có
chuyện gì mà ồn ào
dữ vậy?
Người trưởng phu
hối hả chạy lên, một
hồi rồi chạy xuống:
- Tâu bệ hạ! Có
mấy con chó mà ồn ào
vậy đấy!
- Thế có bao
nhiêu con?
Người trưởng phu
lại chạy lên, lát về
báo:
- Dạ, có bảy con
ạ!
- Thế chó đực hay
chó cái?
Người trưởng phu
lại chạy lên rồi
chạy xuống:
- Thưa, bốn con
chó đực và ba con
chó cái ạ!
Vua lại hỏi nữa:
- Thế lông chúng
màu gì ông có biết
không?
Người trưởng phu
lại cất công lên và
xuống nữa:
- Tâu bệ hạ! Lông
chúng màu đen, màu
vàng và màu trắng ạ!
Đức vua mỉm cười:
- Ngươi ngồi đây,
trẫm thưởng một chén
rượu!
Rồi vua bước vào
bên trong thò cây
quạt đánh thức một
vị quan còn trẻ,
đang ngủ:
- Này, ông lên
trên kia xem cái gì
mà ồn ào vậy?
Vị quan kia thung
dung bước đi, lát
sau về trình:
- Tâu bệ hạ! Có
bốn con chó đực và
ba con chó cái gây
ồn ào. Mấy con chó
con thì màu trắng,
đen và nâu còn mẹ nó
thì màu đen xám. Đấy
là đàn chó của người
giữ đền, thấy khách
đến, chúng sủa um
lên như thế đó!
Bây giờ, nhà vua
mới quay sang người
trưởng phu, chậm rãi
nói:
- Ngươi lên xuống
cả thảy bốn lần mới
có thông tin về bốn
câu hỏi của trẫm!
Còn ông quan này chỉ
đi một lần mà lấy
đầy đủ thông tin còn
nhiều hơn ngươi. Đây
là lý do tại sao ông
ta làm quan, còn
ngươi chỉ làm phu
chèo, mặc dù ai cũng
là người cả! Vậy từ
nay đừng than cuộc
đời là không công
bằng, là bất công
nữa nhé!”
Thấy nội dung câu
chuyện rất có ý
nghĩa nên
cách đây mười mấy
năm, tôi thử đem áp
dụng trong đời sống
của tu viện.
Có hai chú bé ở thôn
Đồng Chầm, Hương Hồ
sang chùa xin tu
học, đều là con nhà
nghèo khổ thiếu cơm
thiếu áo. Nhìn sơ về
“nhân tướng”
thì rõ ràng cái
“gène” di truyền
và dư nghiệp xấu ác
từ quá khứ đã hiện
rõ trên mặt mũi
chúng nên chắc hẳn
cũng khó mà thông
minh sáng láng, có
trí, có tài được.
Nhận những chú bé
nầy mà rèn giũa để
trở thành những
“sứ giả Như Lai”
trong mai hậu thì
quả thật, còn khó
hơn “mài sắt nên
kim”. Mà thôi
kệ, hãy cho chúng
gieo một chút duyên
lành cũng là việc
nên làm của nhà
chùa. Mà quả thật
vậy, cả ba thôn làng
nghèo khổ quanh vùng
như Long Hồ, Ngọc
Hồ, Hương Hồ gởi con
cháu đến tu học có
năm lên tới 22 trẻ,
tuổi từ 10-11 đến
14-15. Chùa sắm đến
22 chiếc xe đạp cho
chúng đi học hằng
ngày. Chỉ vài năm
sau, do hoàn cảnh
này, hoàn cảnh khác
chúng về nhà gần hết
và 22 chiếc xe đạp
cũng tiêu tùng luôn,
do chúng phá phách,
do chạy ẩu đứt phanh
rơi xuống hố hoặc hư
đâu quăng đó...
Trở lại chuyện hai
chú điệu. Một chú có
vẻ rất khôn, lanh có
pháp danh là CH. Đ;
một chú lại rất dại,
chậm, có pháp danh
là CH. N. Để thử
“trí” hai chú
điệu, hôm nọ, nghe
phía bìa rừng ngoài
có tiếng chặt cây
(thường là chặt
trộm), tôi bảo điệu
CH. N. (chú chậm
chạp):
- Con ra xem tại sao
lại có tiếng cây đổ?
Lát sau, trở vào,
chú thưa:
- Bạch thầy, người
ta chặt cây!
- Ai chặt?
CH. N. lại chạy đi
một hồi rồi về thưa:
- Dạ, ông Ất, người
ngoài đội 7.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế họ chặt cây to
hay cây nhỏ.
Điệu lại chạy đi một
hồi nữa mới có lời
đáp:
- Dạ, cây to!
Tôi mỉm cười:
- Thôi, cảm ơn con,
con đi ra ngoài
chơi, nhân tiện gọi
điệu CH.Đ (chú lanh
lẹ) vào cho thầy có
việc.
Điệu CH.Đ vào, tôi
cũng bảo tương tự.
Điệu CH.Đ đi hồi lâu
mới về, rồi thưa:
- Bạch thầy, cái cây
“lười ươi”
hoa đỏ đẹp nằm bên
tảng đá góc đường,
chú Ất chú chặt rồi.
Con hỏi, tại sao cây
của chùa mà chú lại
chặt? Chú Ất nói:
“Ối chào! Rừng chùa
cả vạn vạn cây, tôi
đói, tôi nghèo, tôi
chặt một cây về làm
củi thì đã chết ai
nào! Nhà chùa thì
phải có lòng từ bi
chứ?” (tôi chỉ
ghi lấy cái “ý”
chứ điệu không
có ngôn ngữ diễn đạt
được như thế).
Thấy “thông tin”
mà được vậy thì quả
là có “trí”,
vượt cả “nội
dung” yêu cầu,
tôi bèn hỏi tiếp để
thử khả năng ứng xử
ra sao.
- Vậy thì khi chú Ất
bảo như thế thì con
trả lời làm sao?
- Dạ... dạ... con
chịu!
Tôi cũng mỉm cười:
- Con chịu thì thầy
cũng chịu!
Như vậy, tôi kết
luận trong tâm: Điệu
CH.Đ lanh lẹ, có
trí; điệu CH.N chậm
chạp, trí kém.
Thời gian sau, quan
sát, điệu được gọi
là có trí, thì quả
thật có sáng trí,
miệng lưỡi mau mắn,
lanh lẹ... nhưng các
sư trong chùa ai
cũng phải dè chừng!
Thứ nhất là làm việc
gì cũng cẩu thả, qua
quít, làm cho xong
như tưới nước thì
thấy ướt lung tung
nhưng không thấm
cây, thấm đất; như
quét sân, quét vườn
thì bỏ bỏ sót chỗ
này, chỗ khác. Thứ
hai là thường ăn cắp
vặt trong cốc liêu
của các sư nhưng rất
khó phát hiện. Thứ
ba lại hay nói ba
hoa, không thật như
tục ngữ: “Mười
voi không có một bát
nước xáo!” Lại
còn phải nói là từ
“xạo” cho đến
“xảo” được
biểu hiện rất chỉnh
chu, qua mặt rất
nhiều người trong
chùa...
Nơi chỗ tôi ở, Phật
tử thường cúng dường
bì thư này, bì thư
khác có tiền ở
trong, và tôi thường
bỏ lung tung, khi
thì trong quyến
sách, khi thì để
nguyên trên bàn,
trong “gièm”
(túi vải đựng đồ)
hoặc nơi chỗ ghế
nằm. Vài lần đầu
tiên, khi được cắt
cử dọn dẹp, quét
phòng, điệu CH.Đ
lượm các bì thư trao
hết cho tôi để chứng
tỏ mình thật thà.
Thấy mắt cậu ta
thường đảo ngược,
đảo xuôi như chớp,
tôi nghi cái tính
thật thà ấy nên các
bì thư để chỗ này,
chỗ kia, tôi ghi nhớ
hết và nhớ cả số
tiền bên trong lúc
đến phiên chú. Lần
này, cậu ta cũng trả
lại nhưng thiếu một
bì thư có “tiền
ít nhất!” Thế là
tôi biết chú gian
nhưng khôn;
tuy nhiên, tôi cứ để
bụng vậy, không nói
với ai!
Có lần, tôi và chư
sư đang uống trà ở
phòng ngoài, cửa
“Phong Trúc Am”
khép hờ. Thế mà điệu
CH.Đ quành ra ngã
sau, lên mái,
“lòn” (lách,
luồng) kẽ hở tam
giác nơi nóc nhà
(địa phương ngữ Thừa
Thiên, Quảng Trị gọi
là “khu đị” )
leo xuống rồi lấy
tiền nằm trong thùng
gỗ phước sương,
không nghe một tiếng
động, ma chẳng biết,
quỷ chẳng hay! Khôn,
lanh và “xảo trí”
như vậy đó!
Còn chú CH.N thì rõ
ràng là chậm, ngu,
đần (thiểu năng),
một câu niệm Phật
Pāḷi mà một tháng
cũng không thuộc,
học hành ở trường
luôn đội sổ. Lớp nào
cũng học“đúp”
cả! Điệu này có trí
kém, phát triển
“thân” chứ
“óc” thì lại teo
tóp. Có ai tưởng
tượng cái bụng của
cậu bé 13, 14 tuổi
mà ăn một lần 7 gói
mì tôm, còn 3 gói để
trong túi, cất dành
nhai chơi, nhai luôn
miệng! Mỗi lần ăn
cơm phần mình xong,
trên bàn còn gì, chú
làm sạch, đôi khi
mất luôn phần ăn của
cả chó và mèo! Còn
nắm bắt, ghi nhớ
công việc thì là kẻ
“đặc biệt”
nhất trong chùa. Rất
nhiều lần, tôi sai
công việc, ví dụ dặn
ba việc thì thường
là chú chỉ nhớ việc
cuối - tức là việc
vừa nói xong - còn
hai việc trước óc
chú không lưu trữ!
Đã như vậy, điệu còn
gian, nhưng
mà gian ngu.
Khi nào khều tiền
được trong thùng
phước sương hoặc lấy
cắp của các sư, chú
ra chợ mua đồ ăn
ngay hoặc sắm cái
này, cái kia rồi còn
đem khoe với mọi
người, như kiểu
“lạy ông tôi ở bụi
này!” Biết máu
ngu gian ở sẵn trong
dòng nghiệp nên các
sư nhiều lần chỉ
phạt cảnh cáo rồi
tha thứ... nhưng
tánh tật cũng không
chừa. Hôm nọ, thấy
thùng gỗ phước sương
mất, các sư đi tìm
thì thấy thùng gỗ
nằm ở bìa rừng, còn
nguyên! Đến xem nơi
“miệng”, chỗ
nhét tiền thì thấy
tờ một ngàn nửa
trong nửa ngoài.
- Đúng thủ phạm là
ông CH.N rồi!
Một sư phát biểu.
Một sư khác:
- Đúng là ngu! Ngu
kiểu này chỉ có ông
CH.N! Sao không đập
thùng gỗ luôn mà lấy
tiền, đã vác ra tận
đây rồi mà còn
“kiên nhẫn” lấy
que cây khoèo từng
đồng một!
Mấy năm sau rồi chú
nào cũng về đời. Chú
lanh lẹ thì đi theo
con đường trộm cắp,
đâm chém rồi xì-ke,
ma tuý, tội tù. Chú
chậm chạp học nghề
sửa xe đạp ba năm
cũng không thành. Có
lần, chú CH.Q. trong
chùa bị nổ lốp xe
đạp, vào quán học
việc của CH.N để
sửa. Chủ đi vắng.
Thấy CH.N “mày
mò” xoay trở
hoài cái lốp vẫn
không mở ra được.
Bực mình, chú CH.Q
phải đích thân ra
tay, tự tháo lốp rồi
vá xe luôn nhưng vẫn
trả tiền công cho
chú ấy kẻo tội.
Nhiều năm ở chùa,
dạy dỗ, hướng dẫn cả
trăm giới tử, nghiệm
lại, tôi thấy rằng,
gặp người sáng trí
thì coi chừng trí
xảo. Gặp người nom
có vẻ hiền lành
nhưng chưa chắc là
thật thà, chơn chất
đâu! Gặp một người
vừa sáng trí vừa
chân thật, hiền thì
xem quý hơn kim
cương!
Trở lại với câu
chuyện cổ Khờ-me, rõ
ràng là có cái gì
bất ổn. Kẻ ngu thì
không nói làm gì,
nhưng kẻ có trí, trí
nhanh, trí sáng như
ông quan kia thì mới
chỉ đúng một vế
(lanh, có trí) mà bỏ
quên cái tâm, cái
đức ở vế đi sau! Và
dường như thế gian
người ta thường chọn
người tài trí để phụ
trách các công việc,
từ vĩ mô cho đến vi
mô, không có nơi nào
đào tạo cái đức, cái
tâm, các giá trị
nhân văn, nhân bản
như ông cha ta thuở
trước (Thân Nhân
Trung) đã lập ngôn:
“Hiền tài là
nguyên khí của quốc
gia!” Hiền tài
chứ không phải chỉ
có cái tài, như
người ta “đào tạo
nhân tài!” như
hiện nay. Nội hàm
chữ “hiền”
rất quan trọng, như
hiền nhân, hiền giả,
hiền sĩ... là tinh
hoa cốt cách của đạo
học Đông phương. Bỏ
quên chữ hiền, quả
thật là thiếu sót
rất lớn, cái thiếu
sót nền tảng: Đấy là
đạo đức, nhân cách,
cái làm nên chuẩn
mực con người, thật
sự là Con Người viết
hoa!
Mấy ông quan trong
truyện cổ kia cũng
là tiêu chuẩn cho xã
hội ngày nay tuyển
chọn những bậc
“phụ mẫu chi dân”
ăn trên ngồi trước
trong các nấc thang
giá trị vật chất -
nhưng nếu họ không
lương thiện, không
có đạo đức, họ chưa
hoàn thiện hai chữ
Con Người thì sao
nhỉ?
Hy vọng đấy không
phải là câu hỏi tu
từ!
Như vậy thì cái trí,
cái tài kia là cần
nhưng chưa đủ. Và
nếu cái trí ấy là
trí xảo, và cái tài
ấy không phải là cái
tài của sở học, của
khoa học, của chuyên
môn mà là cái tài
của mưu ma chước quỷ
thì quả là hiểm hoạ
cho nhân gian! Và
hiện nay, cái hiểm
hoạ kia còn chồng
thêm một tầng nữa:
Một nơi nào đó,
chúng ta có thấy
chăng, những người
có trí, có tài thật
sự, đôi khi cả đức,
cả tâm nữa vẫn không
được “thế gian
mắt sáng” sử
dụng: Họ vẫn còn
ngồi chèo đò đổ mồ
hôi, ăn cơm vắt như
các phu chèo trong
truyện cổ Khờ-me kia!
Rồi lại còn biết bao
nhiêu kẻ vô trí, vô
tài, vô đức lại được
ăn sơn hào hải vị,
được ngơi nghỉ cùng
vua, được mỹ nữ cúc
cung hầu hạ ca vũ
nhạc kịch làm vui!
Ôi! Nhân quả vốn
công bằng, phân minh
nhưng tại sao, thời
đại văn minh này,
chúng lại điên đảo,
“lộn tùng xèo”
như thế?
Còn Phật học thì sao
nhỉ? Với Phật học
thì hiền tài như thế
cũng chỉ là chuyện
của thế gian. Thước
đo, tiêu chuẩn để
phân biệt đâu là xấu
ác, kẻ ngu si, đâu
là người lành tốt,
bậc trí hiền thì nó
có khác. Như trong
kinh Hiền Ngu (Bālapaṇḍita-sutta):
“- Này các thầy!
Kẻ xấu ác, người ngu
(bāla), chúng có ba
đặc tướng, ba đặc
điểm rất rõ ràng,
chân xác: Ấy là suy
nghĩ xấu ác, nói lời
xấu ác và hành động
xấu ác. Khi thấy một
người có ba dấu hiệu
ấy thì ta sẽ biết
ngay, đây là kẻ xấu
ác chớ không phải
bậc trí hiền (paṇḍita).
Ngược lại, người
lành tốt, bậc trí
hiền cũng có ba đặc
tướng, ba đặc điểm
rất rõ ràng, chân
xác: Ấy là suy nghĩ
lành tốt, nói lời
lành tốt và hành
động lành tốt. Khi
thấy một người có ba
dấu hiệu ấy thì ta
sẽ biết ngay, đấy là
người lành tốt, là
bậc trí hiền chứ
không phải là kẻ xấu
ác!”
Tiêu chuẩn Phật học
là vậy, về con người,
về phẩm chất cần và
đủ của tác phong,
của nhân cách trọn
lành ba nghiệp thân,
khẩu ý - khi muốn
làm sứ giả Như Lai
giữa thời đại mạt
pháp nầy. Vậy nơi
nào đi ngược, đi
nghịch với thước đo
nêu dẫn ấy thì không
còn là Phật giáo nữa.
Và nếu họ là tỳ-khưu,
là tỳ-khưu-ni thì
chỉ là kẻ trộm tướng,
là người ngu, là kẻ
xấu ác tương đồng
với thế gian thôi!
Ôi! Trí và ngu! Nội
hàm ngữ nghĩa đích
thực của nó, bây giờ,
người đời thường
cũng khó nhìn ra
chân tướng, nhưng
người trí hiền, kẻ
học Phật chơn chính
thì họ thấy ngay,
biết ngay - dù là
mũi tên lao đi, muốn
giấu mình giữa đêm
đen!
MINH ĐỨC TRIỀU
TÂM ẢNH |