Võ
Phước Lộc
1. Sinh
thời Vương An Thạch (tự Giới
Phủ, 1021 – 1086) dành
tình cảm hết sức sâu đậm cho em gái
và trưởng nữ của mình. Lúc
trẻ, vốn là “danh nho tài tuấn”, Vương
có viết bài thơ “Thị
Trường An quân” (1060) gửi cho em gái. Bà
tên là Văn Thục được gả cho Công
bộ thị lang Trương Khuê, phong thực ấp
Trường An huyện quân. Mười năm
cuối đời, An Thạch chuyên tâm nghiên cứu
thiền học, sống một mình tại Giang Ninh.
Trưởng nữ của Vương
được gả cho Ngô An, phong Bồng Lai huyện
quân; thương hoàn cảnh của cha đã
làm bài thơ:
Tây phong
hốt nhập tiểu song sa,
Thu khí
ưng lân ngã ức gia.
Cực
mục Giang Nam thiên lý hận,
Ỷ
tiền hòa lệ khán hoàng hoa.(1)
Tạm dịch:
Gió Tây, tin vắng, màn the động,
Thu
chớm, chau mày thương nhớ
cha.
Hận
lối Giang Nam mòn mỏi mắt,
Nương
song nhòa lệ ngắm hoàng hoa.
An ủi con, Vương Giới Phủ
họa nhiều bài thơ gửi đáp. Trong
số ấy có:
Thứ
Ngô thị nữ tử vận nhị thủ
(kỳ nhị)
Thu
đăng nhất điểm ánh lung sa,
Hảo độc
Lăng nghiêm mạc
ức gia.
Năng
liễu chư duyên như mộng sự,
Thế gian
duy hữu Diệu liên hoa.(2)
Tạm dịch:
Lại
họa vần thơ con gái là vợ Ngô thị
gửi
Bất
lụn đèn thu dọi trúc mành,
Ham
đọc Lăng nghiêm, nhớ cũng
đành.
Mộng
sự đa duyên siêng dứt hết,
Thế gian
truyền mãi Diệu liên hoa.
Thi tứ hữu tình hoài.
Thiền vị tận đắc “chân không diệu
hữu”.
2. Khẩu
khí bài thơ điềm đạm, có
phần lạnh lùng; lời lẽ khúc
chiết. Hai tầng nghĩa thuộc thiền tâm và
thi tình thể nhập quyện nhau. Đằng sau
đó là thông điệp ẩn dụ văn
bản về nhịp sống sinh linh toàn giác.
Nhà thiền làm thơ là do duyên cảnh gây
hứng thú khai phóng nội tâm. Hoặc
là nói lên nhằm xả bỏ những uẩn
khúc còn vướng bận thân tâm; cái
thường xảy ra do điều kiện nhân duyên huân tập
bởi nhân thế vô thường. Hay là
để tỏ ngộ niềm vui với chư duyên
tác hữu.
Tầng
nghĩa thứ nhất bài thơ xuất phát
từ “thi tình duyên cảnh phát”.
Trước tiên là nỗi nhớ của con
gái đưa đến; ngẫu nhiên kết
hợp với cảnh đêm gió thu heo
hắt, dọi ánh đèn leo lét trên màn
trúc lay như cuộn bóng thi nhân lại. Chỉ
một nhịp thở dài của gió thu mà
khởi niệm chư duyên: mê đọc Lăng nghiêm, thi hứng tuôn
trào, tủi thân con gái niệm tình; chợt
thấy đời mình thoáng bất lụn
đèn tàn qua cửa sổ. Thi tình nảy
sinh làm khởi niệm tâm không. Đại bi tâm
khởi phát.
Tầng
nghĩa thứ hai nằm ở chỗ “thi
đáo hội thần”. Cõi dục không thiền
và cõi thiền không dục thể nhập là
một. Không nói tránh vòng vo, chẳng phân
biệt tình cảm cha con, chủ khách.
- Ham
đọc Lăng nghiêm, nhớ cũng
đành,
Mộng
sự đa duyên siêng dứt hết.
Vương tả sự tình
đương diễn của bản thân (say mê đọc
kinh, quên hết sự đời), song ta khó
tách bạch nhà thơ trần tình với
ai. Nhủ mình hay nhắn lời với con?
Bởi lẽ thi tứ hội thần dồn
nén tình cảm vào thiền ý: quán không
xả bỏ. Khoảnh khắc “gió thu lay mành”
làm đốn ngộ, đồng nhất nội tâm
và ngoại cảnh. Hốt nhiên mà quá
khứ phụ tử tình thâm hiện về,
bất giác tự mình đang thấu cảm
như chiếc bóng học kinh. Thấy suốt quá
khứ – vị lai, mọi cảnh ngộ trần ai
đều là thiền cảnh của Diệu pháp liên hoa. Nghiêm
Vũ (Tống) cho trạng huống sáng tác như
trên là cảnh giới “diệu ngộ” của
“trực nhập thừa đương –
thẳng nhập chỗ đương hành”
vậy.
Câu kết dùng “duy hữu diệu Liên hoa” là có hàm ý
chuyển hóa biểu tượng “niêm hoa vi tiếu”
(Phật đưa nhành hoa lên, Đại Ca Diếp mỉm cười). Phiên bản “nhành
hoa” của An Thạch, qua bài thơ là kinh Lăng nghiêm, Pháp hoa. Sức
sống động của “thế gian duy hữu”
làm chuyển nghĩa các hình tượng:
bóng đèn tàn, màn trúc khua, toàn
bài thơ và cả Vương lẫn Bồng Lai
huyện quân… đều thành Diệu liên hoa tất. Thể nhập sinh linh
toàn giác. Đạo – thân – ngữ – ý
là một. Do thi tình mà niệm niệm sinh
rồi bởi thiền tâm tương tùy mà
niệm niệm diệt.
3. Giới
Phủ là trụ cột của đại gia
đình họ Vương. Thiếu thời, anh em,
cha con tình cảm nồng ấm, sống đạm
bạc. Trung niên, do giữ trọng trách của
triều đình nên luôn xa cách. Thâm tình nhi
nữ bởi thế mà trở thành bi
ai oán trách. Năm 40 tuổi, trước khi
đi sứ nước Liêu, Vương viết “Thị Trường An quân”,
an ủi tình hoài biệt ly của em gái.
Đại để, hoàn cảnh sáng tác
giống với bài “Thứ
Ngô thị nữ tử vận nhị thủ”.
Song trường mỹ cảm giữa thơ Nho
và thơ Thiền có khác biệt. Thơ Nho
tả sự tình để ký thác tâm
chí; diệu dụng bởi vận vị “ôn, nhu,
đôn, hậu”:
Thảo thảo bôi bàn cung tiếu ngữ,
Hôn hôn đăng hỏa thoại bình sinh.
Tự lân hồ hải tam niên cách,
Hựu tác trần sa vạn lý hành.(3)
Tạm
dịch:
Đạm bạc vui
chung, người chế giễu,
Dưới
đèn lo nước, chợ đời
khinh.
Dấn thân hồ
hải, ba năm cách,
Vạn lý
trần ai, lại biệt hành.
Có
thể thấy, trường mỹ cảm của
thơ Nho là: thi ngôn chí cao minh, dĩ tính
tình nhã khiết. Cho nên mở đầu và
kết thúc “Thị
Trường An quân” lời lẽ tuy thống
thiết thương cảm, song tinh thần kiêu hãnh
thể hiện rõ một cái tôi tự nhiệm
với muôn dân rõ ràng, dứt khoát. “Thị Trường An quân”
nhủ em gái yêu giữ tình đạm bạc
mà nuôi cốt cách, bền chí thanh cao. Cùng
thi tình bi cảm khởi hứng, song lại
đưa đến hội đắc thiền
lạc viên dung. An Thạch làm bài thơ “Thứ
Ngô thị nữ tử vận nhị thủ” khai thị cho con phá chấp
khởi niệm tình cảm thế gian vô
thường mà hòa nhập vào nhịp
sống đại bi tâm. Nếu không chú ý
đến trường mỹ cảm về sự
không tịch của thơ thiền,
ta khó nắm bắt ý nghĩa cốt
lõi cùng cái đẹp của thi phẩm.
Vương An Thạch là hiện
tượng đặc biệt về loại
hình tác gia thời trung đại; sành
cả thơ Nho và thơ Thiền, có ý
thức phân biệt rành mạch về
trường mỹ cảm.
4. Chủ
trương đánh Đại Việt thất
bại, lần thứ hai An Thạch bị cách
chức tể tướng. Về chính trị,
người khen chê Vương đều đạt
đến cực điểm. Về văn
chương, An Thạch là một trong “Đường
– Tống bát đại văn gia”, ngang danh với
thầy học (Âu Dương Tu), đồng liêu và
là đối thủ chính trị (Tô Thức), bạn
thân (Tăng Củng). Mặt tư chất học
thuật, đạo đức, thơ thiền mọi
người đều nhất trí đánh
giá cao, xem như mẫu mực.
Thấu cảm hoàn cảnh cha con, nghe thơ
Vương khuyên trưởng nữ “duy
tuệ thị nghiệp – giữ trí tuệ làm
sự nghiệp”, bất giác ta nghĩ đến
thơ Lý Nghĩa Sơn (Thương Ẩn) có
câu:
- Lưu
đắc khô hà thính vũ thinh (4)
Giữ cánh
sen tàn nghe tiếng mưa.
Đêm ở
Đình họ Lạc nhớ Thôi Ung – Thôi Cổn.
Mỹ Tho, 01.05.2014
Chú thích:
(1).
(2). Từ Văn Minh, Vương
An Thạch dữ Phật thiền, Hà Nam Nhân Dân
xuất bản xã.
(3)
Vương An Thạch thi
tuyển, Tống thi giám thưởng từ
điển, Thượng Hải từ thư
xuất bản xã, 1995.
(4).
Lê Quang Trường, Lý Thương Ẩn, Lan trong rừng vắng, NXB. Văn Nghệ,
Tp. Hồ Chí Minh, 2009.