--------
Hồ Sĩ Hiệp
Lạc Dương thuộc
phía Tây tỉnh Hà Nam, nằm ở miền Trung du sông Hoàng Hà, nơi phát sinh của
nền văn minh Hoa Hạ, và 13 triều đại đều đóng
đô ở đây. Đời Đường, Võ Tắc Thiên từ kinh
đô Trường An tỉnh Thiểm Tây đã dời đô về Lạc
Dương. Trường An được gọi là Tây kinh và Lạc
Dương là Đông kinh. Thời xưa Lạc
Dương được coi là “Cửu châu phúc
địa” của lịch sử và văn hóa Trung Hoa. Nơi đây có
nhiều thắng tích văn hóa như: hang đá Long Môn, chùa Bạch Mã,
núi Bạch Linh, núi Lão Quân. Lão Tử người sáng lập
đạo Lão đã hoàn thành tác phẩm “Đạo
đức kinh” nổi tiếng ở Lạc Dương, và từ đó Lạc
Dương trở thành cái nôi của Đạo học.
Khổng Tử “Vạn thế sư biểu”, người đứng
đầu Nho gia, từ Khúc Phu tỉnh Sơn Đông cũng đã
đến Lạc Dương để học tập
chế độ điển chương của thời Tây
Chu. Cũng từ đó Lạc Dương trở thành
nơi phát sinh của Nho học.
Sau khi Phật giáo từ
Ấn Độ truyền nhập vào Trung Quốc, quan chức địa
phương xây dựng chùa Bạch Mã đầu tiên nên
Lạc Dương trở thành thánh địa của
Phật học. Hai anh em nhà sáng lập Lý học nổi
tiếng của Lạc Dương là Trình Hạo và Trình Di
cũng là người Lạc Dương nên nhân sĩ và dân
chúng khắp nơi tụ tập về Lạc Dương
để học và truyền bá Lý học. Ngoài tư
tưởng triết học, Lạc Dương còn là nơi sản
sinh ra những nhà phát minh sáng chế nổi tiếng
thời xưa, như “nghề làm giấy Thái hầu” do ông
tổ Thái Luân, và máy định vị thiên thể, máy đo
động đất, máy dự báo khí hậu thời
tiết do Trương Hoàng sáng chế, hay xe chỉ nam, xe Thủy
long cốt của Mã Câu phát minh đều là những thành
công có giá trị của người Lạc Dương.
Trong lĩnh vực nghiên cứu thư tịch cổ
xưa người Lạc Dương cũng có những
đóng góp nổi tiếng, làm vẻ vang lịch sử văn hoá
thời buổi xa xưa, như sự ra đời tác
phẩm “Thuyết văn giải tự” của Hứa
Thân, “Luận hoành” của Vương Sung, “Hán thư”
của Ban Cố, Ban Siêu, và “Tam quốc chí” của Trần Thọ.
Đất Lạc Dương cũng là nơi sản sinh
ra và nuôi dưỡng các nhà tư tưởng, văn
học gia lớn của nhân loại như Tư Mã Thiên,
Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Đường
Huyền Trang, Tư Mã Quang v.v…
Thời Hán – Đường
Lạc Dương là một trung tâm Phật giáo lớn
của Trung Quốc. Vì vậy “Phật giáo Lạc
Dương” là một khái niệm rất phổ biến
thời đó. Thời kỳ đầu thời Đông Hán, vua Hán Minh Đế sau khi
nằm mộng thấy người thần, đã sai sứ thần sang
Ấn Độ “cầu
pháp”, và đây được coi là tiêu chí xác
định thời điểm chính thức Phật giáo từ Ấn
Độ truyền nhập vào Trung Hoa là vào
đời Hán.
Điều này được ghi chép sớm nhất trong
sách “Lý cảm luận” của Mâu Tử đầu thời
Đông Hán: “Vua nằm mộng nhìn thấy người
thần” và giải thích rằng: “Xứ Thiên Trúc (tức
Ấn Độ) có kẻ đắc đạo, gọi là
“Phật” bay vào khoảng hư không, mình phát ra ánh sáng”. Vua
Minh Đế “bèn sai Trương Khiên, Vũ Lâm Lang trung cùng 12 người
viết cho xong 42 chương kinh Phật”. “Khi đó ngoài cửa Long Môn
ở phía Tây thành Lạc Dương cho xây chùa Phật”.
Đến thời Tây Hán, vua nhà Hán cho người sang Thiên Trúc tìm
hiểu Phật giáo và trở về Lạc Dương
dịch và in “kinh Bốn mươi hai chương”. Sử sách
còn nói vào năm Vĩnh Bình thứ 7 (tức năm 64), vua sai người đi
sứ và 3 năm sau trở về Lạc Dương. Chùa
Phật được đổi tên là chùa Bạch Mã
(Bạch Mã tự). Dựa vào hai cứ liệu là “dịch kinh” và “chùa Bạch
Mã” có thể khẳng định Lạc Dương là
một trung tâm Phật giáo lớn mà người có công
lớn trong việc truyền bá Phật giáo ở Trung
Quốc là vua thời nhà Hán.
Tên “chùa Bạch Mã” xuất
hiện tương đối muộn. Theo sách “Nguỵ
thư, mục
Thích Lão chí”,
thì sau khi Thái Âm trở về
Lạc Dương đã đặt tên này. Nhưng theo sách “Cao tăng
truyện” thì quốc vương ngoại quốc thời
xưa, sau khi chùa cũ hư nát, khi xây chùa mới đã lấy tên là “Bạch Mã” (ngựa
trắng). Thời Lưỡng Tấn các nơi như
Trường An, Tương Dương, Kiến Khang
đều có chùa mang tên Bạch Mã, nhưng chùa Bạch Mã
ở Lạc Dương là sớm nhất. Từ sau
thời Đông Hán, một loạt chùa Bạch Mã xuất
hiện đều dựa vào nguyên mẫu chùa ở Lạc
Dương. Năm Gia Bình
thứ 2 (250) thời Tào Nguỵ, một Cao tăng Thiên Trúc
đến Lạc Dương phiên dịch sách “Tăng kỷ giới tâm”, và mời Phạn tăng
làm giới sư, từ đó Trung Quốc mới có
giới luật. Theo nghi thức này ở Lạc
Dương có một Hán Tăng sát độ đầu tiên đó là Chu
Sĩ Hành. Ông cũng là Hán Tăng quyết tâm đến Thiên Trúc
để cầu pháp nhưng không thực hiện
được mục đích. Năm Thái Khang thứ 3 (282)
thời Tây Tấn, ông cho đệ tử mang bản thảo sách Phạn
với 90 chương hơn 60 vạn chữ về
Lạc Dương. Đến năm 80 tuổi vị Cao tăng có công truyền bá
Phật giáo nổi tiếng này đã qua đời. Năm
Nguyên Khang thứ nhất (291), bộ kinh Phật dịch này có tên gọi là “Phóng quang
Niết-bàn
kinh”. Thời Tây Tấn ở Lạc Dương xuất
hiện đông đảo Tỳ-kheo Ni Hán tộc đầu tiên mà
tiêu biểu là Tỳ-kheo Ni Trọng Linh Nghi. Vị Ni này lấy giảng pháp làm
Phật sự và
có 23 phụ nữ theo học và sau đó xuất gia, tu hành
ở chùa Trúc Lâm Lạc Dương. Thời kỳ này
ở Lạc Dương có 42 chùa Phật. Sau thời
Đông Tấn, bốn vị Tăng ở Lạc Dương đã mời
vị Tăng
người dân tộc Hồ (gọi là Hồ Tăng) kiến
lập giới
đàn và chính thức thừa nhận chế độ Tỳ-kheo
Ni. Năm Thái Hòa thứ 18 (494) thời
Bắc Nguỵ, kinh đô từ Bình Thành được dời về
Lạc Dương. Thời Bắc Nguỵ ở trong
phạm vi nội thành Lạc Dương có 1.367 chùa Phật, trong đó có
một số chùa do vua, hậu phi, quan lại và quý tộc xây dựng. Năm
Hi Đình thứ nhất (516), Linh Thái hậu xây chùa Vĩnh Ninh, phòng
ở cho các Tăng
có hơn một ngàn gian, toà tháp làm bằng gỗ lên
đến 9
tầng, cao 90 trượng.
Không khí lễ hội
Phật giáo, vui chơi giải trí và tâm linh ở Lạc
Dương rất náo nhiệt, đặc biệt là ngày
Phật đản (mùng 8 tháng 4) hàng năm, dân chúng và Tăng chúng ở đô thành
cùng hoan hỉ chào đón, cảnh tượng tưng bừng chưa
từng có. Chùa tháp, phố phường chong đèn kết
hoa rực rỡ. Các chùa chiền, hang động
người tập trung đông đảo, trật tự
và trang nghiêm làm cho không khí của ngày Phật đản
ở kinh thành càng thêm ý nghĩa. Đây cũng là ngày du hành,
vui chơi, lễ hội đông vui mà ít có nơi nào có
được ngay cả kinh đô Trường An.
Lạc Dương là nơi
có nhiều Tăng
nhân được đưa sang Thiên Trúc thỉnh kinh và
tu nghiệp Phật giáo và khi trở về họ có
nhiều đóng góp tích cực trong việc truyền bá đạo Phật ở
khắp nơi. Tăng đoàn từ Lạc Dương
không ngại khó khăn gian khổ đã đến Thanh
Hải, Tân Cương, A Phú Hãn và lưu lại các nơi
này trong vòng hai năm để tiếp thu Phật pháp.
Năm Chính Quang thứ 3 (522) họ trở về Lạc
Dương và mang theo rất nhiều bộ kinh Phật quý báu, trong đó có nhiều
bộ kinh Phật Đại thừa mà ở Trung Quốc
chưa có. Nhiều người ngoại quốc cũng
thường xuyên đến Lạc Dương, có khi
số người đông hơn ba ngàn. Nhà vua bố trí cho họ
ở chùa Vĩnh Minh. Những người ngoại
quốc này có ảnh hưởng nhất định
đối với học phái Phật giáo và các tôn giáo khác.
Đến thời Tùy –Đường Phật
giáo Lạc Dương không ngừng phát triển và có
vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo Trung
Quốc. Năm Vũ Đức thứ ba (620),
tức sau 2 năm
nhà Đường được thiết lập (618), Đường Thái Tông sai
con là Lý Thế Dân thảo phạt tướng Vương
Thế Sung của nhà Tuỳ và chùa Trúc Lâm Lạc
Dương là nơi hợp đồng tác chiến và
nhiều Tăng
nhân đã ủng hộ nhà Đường thống
nhất đất nước. Năm Cao Tông thượng
nguyên thứ 2 (675), sau khi điêu khắc tượng Phật
ở Trùng xá Long Môn hoàn thành rất đẹp, hoàng hậu Võ Tắc Thiên
đã quyên tiền giúp đỡ. Sau khi Cao Tông (Lý Trị) qua
đời,
bà Võ Tắc Thiên trở thành nữ hoàng đầu tiên
của nhà Đường và quyết định trở
về chấp chính tại Lạc Dương. Vào năm Thiên Thục nguyên niên
(690), Tiết Hoài
Nghĩa và chín Tăng nhân hoàn thành việc biên soạn “Đại vân kinh” và nói rằng
đời trước bà Võ Tắc Thiên đã mơ
ước là người kế thừa sự nghiệp
vĩ đại của Phật Thích Ca Mâu Ni, và vì để giải cứu
chúng sinh ở đời bà đã biến thành nữ thần. Sau khi bà qua đời, dân chúng coi bà như Thánh
vương muôn đời bất tử vì Phật giáo. Bà
Võ Tắc Thiên là
người có công trạng to lớn trong việc lưu bố “Đại vân kinh” trong thiên hạ. Sau
đó, khi triều Chu thiết lập Trường An và
Lạc Dương thành hai kinh thành và các châu khác đều xây
dựng chùa Đại Vân, chín vị Tăng được phong
làm luyện công. Riêng ở Lạc Dương có xây chùa Lập
Thụ Kí và có khắc chữ “Kim luân thánh thần hoàng
đế”. Ngoài ra chùa còn có khắc 4 chư “Từ thị
việt cổ”. “Từ thị” có ý là để chỉ Di
Lặc. Từ đó về sau các vị vua thống trị
của nhà
Đường là hậu duệ của Lý Nhĩ (Lão
Tử),
người khai sáng ra Đạo giáo.
Năm Chính Thánh nguyên niên
(695) sau 25 năm du học ở Thiên Trúc trở về, Tăng nhân Nghĩa Hanh đã
mang về những bản kinh Phật bằng tiếng
Phạn và nữ hoàng Võ Tắc Thiên đã ra cửa cung
ở phía Đông để nghênh tiếp và sắp xếp cho ông ở
trong chùa Thụ Ki để dịch kinh Phật từ tiếng Phạn và
viết bài tựa. Từ đó những Tăng nhân theo phái Bồ-đề của Thiên Trúc phát
triển mạnh và rất nhiều người chịu
ảnh hưởng. Các bộ Tăng pháp tạng của Trung Quốc
đều được dịch từ các bộ kinh
tiếng Phạn lưu hành ở Lạc Dương. Sau khi
bản dịch mới “Hoa nghiêm kinh” được ban hành, các bản pháp tạng đều có sự
hiệu đính, tu sửa và đều được bà Võ
Tắc Thiên xem qua rất cẩn thận. Năm Thánh
Lịch thứ 2 (699) bà Võ Tắc Thiên tuyên bố bắt
đầu giảng ý nghĩa pháp tạng trong cung.
Loạn An Lộc Sơn
nổi lên (755 - 763) tuy chưa đầy 10 năm nhưng
trung tâm Phật giáo Lạc Dương bị uy hiếp
nghiêm trọng. Quân phiến loạn tàn phá khắp nơi, dân chúng và Tăng nhân chết rất
nhiều. Nhà thơ đời Đường là Giả
Đảo đã từng ôm hận mà kêu lên rằng: “Không bằng như bò dê, còn
được chiều tối trở về”(bất như ngưu dữ
dương, do đắc nhật mộ quy). Nhà thơ vĩ đại
Bạch Cư Dị sau hơn 40 năm làm quan cho nhà
Đường đã trở về làm bậc tu hành ở
núi Hương Sơn Long Môn thuộc Lạc Dương,
lập tăng xá, “đàm thiền vịnh thi” và “du
thưởng tiêu nhật” (tiêu khiển vui chơi qua ngày).