Cũng như người Việt trong nước, cứ vào mỗi
dịp tết Nguyên Đán, người Việt hải ngoại, Phật tử cũng như không phải Phật tử
thường hay đi chùa lễ Phật và hái lộc vào đêm giao thừa và những ngày đầu năm,
để cầu phúc, cầu may, xin Trời Phật, Bồ Tát phù hộ cho bản thân và gia đình năm
mới được mọi điều tốt lành, tai qua nạn khỏi, mọi sự hạnh thông như ý muốn.
Vì hoàn cảnh nên đa số các chùa tại hải
ngoại không có vườn rộng để trồng hoa mầu và các cây ăn trái mà chỉ trồng một số
cây cảnh, đủ để làm đẹp cảnh chùa. Do đó, những năm vừa qua, các chùa ở những
nơi đông người Việt cư ngụ đã mua hàng nghìn trái cam quít trước tết đề làm quà
phát lộc đầu năm cho Phật tử đến chùa lễ Phật, nhằm tránh cho những cây cảnh
quanh chùa khỏi bị hư hại.
Nhiều người đi chùa hái lộc đầu năm cứ nghĩ
tưởng hễ đầu năm, hái được nhiều lộc thì quanh năm sẽ được hưởng nhiều lợi lộc,
được lên lương, thăng quan tiến chức, buôn may bán đắt và trúng số vài chục
triệu…. Thế nên vào đêm giao thừa người người đến chùa hái lộc bẻ cành, có người
còn mang cả chậu hoa kiểng của chùa về nhà. Thật đáng thương thay!
Đầu
năm đi chùa lễ Phật là một tập tục dễ thương của người Việt, là một nét văn hoá
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhưng chỉ đi chùa lễ Phật thôi, xin đừng hái
lộc, bẻ cành, ngắt hoa, và cầu xin đủ thứ, mà thay vào đó là tích cực gieo nhân
trồng phước.
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi
nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu. Nhà Phật tin rằng tất cả mọi chuyện chúng ta đang thọ hưởng
bây giờ, đều chỉ là hoa trái của những hành động của ta trong quá khứ, và hiện
tại ta đang làm gì thì kết quả tương ứng sẽ xảy đến cho ta trong tương lai. Nếu
muốn có cuộc sống an lạc hạnh phúc hay muốn được hưởng lộc nhiều, phước nhiều,
cần phải gieo nhiều nhân lành.
Thay vì hái lộc, thay vì cầu xin Trời Phật,
chúng ta nên gieo nhân lành bằng cách nghĩ đến các điều thiện, nói các điều
thiện và làm các việc thiện. Thế nào là việc thiện? Chính là những việc tốt,
việc lành, những việc làm mang lại an lạc hạnh phúc cho mình, cho người và không
làm tổn hại đến những chúng sinh khác. Một vài thí dụ cụ thể là ăn chay, không
sát sinh, phóng sinh, giúp nuôi trẻ mồ côi, săn sóc người già, kẻ bệnh hoạn tật
nguyền. Nói chung là làm những công tác từ thiện xã hội. Gieo nhân lành, nhân
thiện, không những sẽ được nhiều lộc trong tương lai mà còn được cả phước và
thọ, tức là hưởng được nhiều điều may mắn tốt lành và có đượcmạng sống dài lâu,
không bệnh tật.
Con người ta trên thế gian, ai ai cũng mong
muốn giầu sang phú quý, mạnh khoẻ sống lâu và may mắn; mà hầu như ít ai để ý đến
các loại nhân đã và đang gieo trồng: quả giàu sang phú quý là nhân bố thí, quả
mạnh khoẻ sống lâu và may mắn là nhân không sát sanh, nhân phóng sinh và nhân
giúp đỡ người khác. Trong kho tàng truyện cổ Phật Giáo có hai câu chuyện ngắn
liên quan đến vấn đề gieo nhân hái quả này.
Câu chuyện thứ nhất lên quan đến nhân bố thí
và giúp đỡ người khác. Chuyện kể rằng: công chúa Nhật Quang, con của vua Ba Tư
Nặc nước Xá Vệ, có vẻ đẹp thuỳ mị, tính tình đoan trang, thông minh và đức
hạnh. Tuy sanh trong hoàng tộc, sống cao sang , nhưng lùc nào vẫn giữ thái độ
nhã nhặn khiêm tốn, nhất là đối với những kẻ nghèo khổ, tật nguyền, cô luôn luôn
tìm cách giúp đỡ. Không những vua cha và hoàng hậu yêu quý mà các quan lớn nhỏ
trong triều và dân chúng cũng quý mến công chúa không kém.
Một hôm, trong lúc vui, vua cha nói với công
chúa rằng: “cả nước không ai đẹp, dễ thương và hạnh phúc bằng con, đời con được
như thế là nhờ sức của cha mẹ vậy…” Công chúa Nhật Quang trả lời vua: “Tâu phụ
vương, công ơn sinh thành và dưỡng dục của phụ vương và mẫu hậu con không bao
giờ dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con nghĩ cũng bởi ảnh
hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn là nhờ kiếp trước con đã tu nhân
tích đức.”
Vua Ba Tư Nặc bị chạm tự ái và muốn bảo thủ
ý của mình là đúng nên nhờ một viên cận thần tìm một người con trai bằng tuổi
thật nghèo để gả công chúa cho. Vua nói với công chúa : “hôm kia con đã nói:
“hạnh phúc của con hiện tại là phần lớn do con đã tu nhân tích đức ngày
trước. Nay ta muốn xem lời ấy ra sao, nên ta đã quyết định gả con cho một chàng
thanh niên hành khất, nếu thật như lời con nói con cũng sẽ trở nên giầu có sung
sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai lên đường với chồng con…”
Sáng ngày hôm sau, công chúa vào lạy tạ cha
mẹ và từ biệt mọi người rồi bình tĩnh ra đi với chàng hành khất. Cả nhà và các
quan cận thần đều khóc lóc thương xót, nhưng không ai dám cản ngăn ý định của
vua. Rời hoàng cung, hướng về miền quê, không biết đi về phương nào lập nghiệp,
công chúa hỏi chàng hành khất quê quán ở đâu và vì sao mà phải đi hành
khất. Chàng hành khất nói gia đình ngày xưa cũng khá giả, nhưng vì ham chơi nên
khi cha mẹ qua đời phải bán hết cả ruộng vườn nhà cửa, nay chỉ còn một sở vườn
hoang, nên phải đi hành khất. Một hôm đi lang thang thì gặp một vị quan hỏi gia
thế rồi dẫn vào cung gặp vua. Tôi không biết vì sao vua lại đem công chúa gả cho
một kẻ nghèo hèn như tôi.
Nghe xong câu chuyện hai người quyết định về
sở vườn hoang còn lại để tạm trú. Họ tìm cách dựng một cái chòi nhỏ nơi đây sinh
sống. Không ngờ, đến khi đào đất dựng cột nhà thì bắt gặp ba cái chum lớn niêm
khằn cẩn thận. Hai người mở ra thấy toàn là vàng bạc châu báu. Công chúa vui
mừng đem bán một số vàng bạc rồi mướn nhân công tạo lập lâu đài vườn tược, trồng
tỉa hoa quả. Vốn sẵn có lòng từ, công chúa tiếp tục bố thí tiền cho những người
nghèo và giúp đỡ những người khác, nên kẻ ăn người ở trong nhà và dân làng đều
yêu mến hai người và chẳng bao lâu sở vườn hoang biến thành lâu đài tráng lệ,
mọi người vô ra tấp nập. Tin đồn công chúa về tới hoàng cung. Vua Ba Tư Nặc nhất
mực không tin liền đến tận nơi dò xét thì quả đúng như vậy, nhưng vẫn thắc mắc
không biết tiền kiếp công chúa đã gieo những nhân lành gì mà ngày nay lại gặt
được nhiều phước báo như vậy. Vua nghĩ ngợi không ra bèn tìm đến đức Phật xin
Ngài khai thị.
Sau khi nghe câu chuyện công chúa do vua
tường trình, đức Phật bèn kể cho vua nghe câu chuyện từ thời đức Phật Ca Diếp,
có cặp vợ chồng thương buôn giầu có, người vợ hay làm các việc bố thí cúng
dường, qui y Tam Bảo, luôn giúp đỡ người, nhất là với kẻ tật nguyền, nghèo
khó; Nàng cũng luôn luôn khuyên mọi người bỏ ác làm lành, quy y Tam Bảo. Trong
khi đó người chồng thì nghịch lại, mỗi khi thấy vợ bố thí thì tỏ ý không vừa
lòng, tìm cách can ngăn…Một hôm nhân ngày lễ Tết, người vợ đi chùa lễ Phật cúng
dường Tam Bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày liên tiếp, người chồng không bằng
lòng mà muốn dùng số tiền đó sắm sửa thêm nhà, thêm cửa. Người vợ khuyên chồng
nên dùng một số tiền làm các việc phước thiện, giúp các người nghèo bởi vì theo
kinh Phật dạy những người nghèo khổ hiện tại đều do đời trước tham lam ích kỷ,
không bố thí giúp người…Nghe vợ giải thích, người chồng tỉnh ngộ, từ đó không
ngăn cản vợ mà còn rất hăng hái làm việc phước thiện.
Này đại vương, Phật nói -- Người vợ đó chính
là công chúa Nhật Quang ngày nay và người chồng công chúa hiện tại cũng chính là
người chồng thương buôn giầu có ngày trước. Ngày trước lúc chưa tỉnh ngộ, anh ta
bỏn xẻn, ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay phải chịu đói rách
một thời. Còn công chúa Nhật Quang, vì đời trước sốt sắng bố thí nên được quả
báo giầu sang sung sướng, nhiều người mến phục và thường khuyên mọi người bỏ ác
làm lành, quy y Tam Bảo nên ngày nay được quả báo thông minh… Vua Ba Tư nặc nghe
câu chuyện tiền kiếp của công chúa Nhật Quang bèn tỉnh ngộ và hiểu rõ lý nhân
quả. Vua lạy tạ Phật và vui vẻ ra về.
Câu chuyện thứ hai liên quan đến nhân không
sát sanh và phóng sanh. Chuyện kể rằng tại một ngôi chùa nọ có một chú Sa di
được sư phụ cho phép trở về thăm cha mẹ, vì Sư có thần thông nên được biết trong
vòng một tháng nữa là thọ mạng của chú sa di sẽ chấm dứt. Trên đường đi về quê,
chú Sa di thấy một ổ kiến lớn đang sắp sửa bị trôi theo dòng nước lũ, chú vội
vàng tìm cách cứu để ổ kiến khỏi bị chết. Chú về thăm nhà và sau đó trở lại
chùa. Nhiều tháng trời trôi qua, chú vẫn tiếp tục tu hành niệm Phật ăn chay bên
sư phụ. Sư phụ của chú rất thắc mắc, một hôm hỏi chú chuyện gì đã xảy ra khi chú
về thăm cha mẹ. Chú kể rõ tự sự chuyến về thăm quê, kể cả chuyện chú cứu vớt một
ổ kiến to. Sư phụ mới hiểu việc kéo dài thọ mạng chính là nhân cứu giúp chúng
sinh và nhân không sát sinh. Trong kinh Phật cũng dạy nhân sát sinh có thể đưa
đến địa ngục, làm loài bàng sinh, quả báo nhẹ là làm người với tuổi thọ ngắn và
hay bệnh hoạn.
Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng
công chúa Nhật Quang được quả báo giầu sang sung sướng là do nhân bố thí đời
trước, được quả báo thông minh là do nhân khuyên người khác làm lành tránh ác,
quả báo tướng mạo đoan trang đẹp đẽ là do nhân đời trước giúp đỡ kẻ tật
nguyền. Còn chú Sa di trong câu chuyện thứ hai, do nhân cứu mạng sống của một ổ
kiến to, nhân ăn chay không giết hại chúng sinh nên mạng sống được kéo dài,
không bệnh tật.
Hòa thượng Tịnh Không trong thời giảng Kinh
Lăng Nghiêm tại Úc Châu cũng giảng rõ “tận tâm tận lực bố thí pháp, bố thí tiền,
làm các việc lành là công đức vô lượng”. Ngài khuyên chúng ta nên tu hạnh bố
thí, bố thí tài thì được giầu có, không bao giờ thiếu thốn, bố thí pháp được
thông minh trí tuệ, trong bất cứ hoàn cảnh nào không thể bị mê hoặc điên đảo, bố
thí vô uý, cứu sinh, cứu mạng được mạnh khoẻ sống lâu…
Nhân quả rõ ràng, khi chúng ta làm lợi ích
cho tha nhân, chắc chắn về sau chúng ta sẽ thọ hưởng một hay nhiều niềm an lạc
hạnh phúc. Một nhân thiện sắp sẵn một quả lành ở tương lai. Càng gieo nhiều nhân
thiện thì phước báo càng sâu dày. Phước được ví như tấm ngân phiếu bank
check. Tiền deposit ngân hàng càng nhiều thì ngân phiếu càng có giá trị lớn. Do
đó đầu năm đi lễ chùa không phải để hái lộc, hái hoa, bẻ cành và cầu xin đủ thứ
mà là để gieo nhân tích luỹ phước đức.
Tịnh Thủy