Nguyễn Thế Đăng
Mỗi
lần tết đến, chúng ta ôn lại những việc trong năm, những đoạn đường đã qua,
những sai lầm thiếu sót và những tạm thời thành tựu. Có những tiến bộ trên con
đường Phật đạo thì chúng ta càng gần với vị Phật tương lai, Đức Di Lặc hơn.
Kiểm điểm những việc
được và chưa được để hy vọng nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, sáng suốt hơn, cho
hy vọng ấy. Trong mọi hy vọng, hy vọng lớn nhất trong cõi Ta Bà Kham Nhẫn này
chính là Đức Phật Di Lặc và Hội Long Hoa tương lai.
Đức Di Lặc được nói đến
trong kinh điển hệ Pali Nam tông và hệ Sanskrit Bắc tông như vị Phật tương lai,
kế tiếp Đức Phật Thích Ca. Trong những kinh Đại thừa, hầu hết có những lời
thuyết pháp chỉ dạy của Đức Di Lặc.
Danh hiệu Di Lặc (Maitreya)
dịch là Từ Thị, vì lấy Đại Từ làm căn bản, cho nên được gọi là bậc Đại Từ Bi
tương lai (Kinh Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật). Bồ tát Di Lặc từ
những kiếp xa xôi đã tu tâm Từ vô lượng, nên gọi là Từ Thị. Ngài còn có tên là A
Dật Đa (Ajita), Vô Năng Thắng, phát nguyện từ trong kiếp binh đao, bảo vệ chúng
sanh. Lòng từ bi vô cùng, tất cả xấu ác không thể thắng được nên có danh hiệu
như vậy. Vào thời tương lai, các chúng sanh mỏng tham sân si, thực hành Mười
Thiện, kính tin Phật, Bồ tát Di Lặc sẽ vào lúc ấy chứng đắc Giác ngộ vô thượng (Kinh
Đại Bảo Tích). Vì bổn nguyện như vậy, thế nên ngày ngài ra đời thế giới này
biến thành tịnh độ (Kinh Phật thuyết Di Lặc hạ sanh).
Đức Di Lặc còn được xem
là vị lập ra Duy thức tông, một trong hai tông chủ yếu của Đại thừa (tông kia là
Tánh Không tông hay Trung đạo tông), khi ngài truyền cho hai ngài Thế Thân và Vô
Trước những bí yếu của Duy tâm, Duy thức.
Qua cuộc đời của các
đại sư trong lịch sử Phật giáo, có vẻ như cõi Đâu Suất cũng không xa lắm, vì các
ngài có những liên hệ, liên lạc với cõi ấy và với Bồ tát Di Lặc, như các ngài
Đạo An, Thế Thân, Vô Trước, Huyền Trang, Ngưỡng Sơn, Hám Sơn, Hư Vân…
Chúng ta kể một chi
tiết trong cuộc đời ngài Huyền Trang. Huyền Trang là một trong những người đầu
tiên tín ngưỡng Đức Di Lặc. Đây cũng chính là động cơ thúc đẩy ngài đến Ấn Độ để
học Duy thức học.
“Có lần ngài bị bọn
cướp định giết để tế thần. Ngài quán tưởng, cầu nguyện Đức Di Lặc. Ngài mong ước
được tái sanh ở đó để học Duy thức. Sự thiền định mạnh mẽ đến độ ngài cảm thấy
như ở trên đỉnh núi Tu Di, tới cung trời Đâu Suất và gặp Bồ tát Di Lặc. Sau đó
bão cát nổi lên, bọn cướp sợ hãi và thả ngài” (Huyền Trang, nhà chiêm bái và
học giả, H.T Thích Minh Châu, ĐH Vạn Hạnh xuất bản).
Ngài nguyện vãng sanh
về Đâu Suất và khi chết các điềm lành hiện ra khiến mọi người chung quanh phải
tin là ngài đã trở về Đâu Suất.
Thiền sư Hư Vân
(1840-1960) khi bị tra khảo đánh đập đã ngưng thở, nhưng môn đồ thấy thân thể
còn ấm nên cứ để như vậy. Bảy ngày sau, ngài tỉnh dậy, cho biết là đã đến nội
viện cung trời Đâu Suất. Ở đó có vài mươi vị, trong đó có nhiều vị ngài quen
biết, nghe Đức Di Lặc thuyết định Duy thức. Đức Di Lặc nói ngài hãy trở về vì
chưa xong phận sự, và nói cho ngài nghe một bài kệ Duy thức sâu sắc.
Chỉ trong lịch sử Trung
Hoa, đã có nhiều hiện thân của Bồ tát Di Lặc ở tại thế gian mà nổi tiếng nhất là
Hòa thượng Bố Đại, Phó Đại sĩ.
Như một câu của Duy
thức, “Ba cõi duy tâm tạo”. Những vị đã chứng nghiệm “duy tâm tạo” có lẽ thấy
không gian ngăn cách cõi này với cung trời Đâu Suất cũng không xa lắm. Và cũng
thế, với thời gian. Thời gian Đức Di Lặc hạ sanh ở trái đất này đối với các vị
đã chứng ngộ chắc cũng không lâu lắm, dù với người thường chúng ta thì hàng
triệu triệu năm.
Chúng ta không biết
đích xác bao giờ Bồ tát Di Lặc hạ sanh. Có thể vài triệu hay vài chục triệu năm
nữa, vì những gì nói trong kinh điển chúng ta không thể tính toán theo con số
đời thường. Nhưng dù bao nhiêu lâu đi nữa, khì còn ở trên trái đất này, trong
cõi Diêm Phù Đề này, chúng ta vẫn luôn luôn hướng tới thời đại của ngài để hy
vọng. Chính trong niềm hy vọng đó mà chúng ta hoàn thiện cuộc đời chúng ta.
Đức Phật Di Lặc sẽ hạ
sanh ở trái đất này chứ không ở nơi nào khác. Lúc ấy điều kiện của trái đất này
là:
“Thời ấy khí hậu điều
hòa, bốn mùa thuận tiết. Nơi thân con người không có 108 thứ bệnh. Tham dục, sân
giận, ngu si không nặng nề lắm. Tâm người quân bình đều đồng một ý, gặp mặt vui
vẻ, nói với nhau lời tốt… Bấy giờ Bồ tát Di Lặc trên trời Đâu Suất quán sát cha
mẹ, rồi giáng thần từ hông phải sinh ra như Ta (Phật Thích Ca) trong kiếp này” (Kinh
Phật thuyết Di Lặc hạ sanh).
Và điều kiện con người
trên trái đất này để Đức Di Lặc hạ sanh là:
“Đức Phật Thích Ca nói:
A Nan, Bồ tát Di Lặc khi xưa tu hành Bồ tát đạo phát nguyện như vầy: ‘Nếu chúng
sanh mỏng dâm, nộ, si, thành tựu Mười Thiện, Ta vào lúc ấy mới thành Giác ngộ Vô
thượng’. A Nan, vào thời tương lai có các chúng sanh mỏng dâm, nộ, si, thành tựu
Mười Thiện, Bồ tát Di Lặc sẽ vào lúc ấy đắc Giác ngộ Vô thượng. Tại sao vậy? Do
Bồ tát ấy có lực bổn nguyện như vậy (Di Lặc Bồ tát sở vấn hội, Kinh Đại Bảo
Tích)”.
Điều kiện để Đức Phật
hạ sanh chính là do ở nơi thế gian này và do chúng sanh mỏng dâm, nộ, si, thành
tựu Mười Thiện. Bởi thế chẳng nên hỏi bao giờ Đức Di Lặc hạ sanh, mà phải hỏi
chúng ta đã đủ điều kiện về phần chúng ta chưa để Đức Di Lặc hạ sanh. Bởi vì Đức
Di Lặc thành Phật là cho chúng ta chứ không phải cho Ngài.
Trong lịch sử loài
người, chúng ta thấy loài người không bao giờ bị bỏ rơi, mà mối liên hệ giữa
trái đất này và Đức Di Lặc vẫn luôn luôn tồn tại và được củng cố. Chúng ta luôn
nằm trong công trình tương lai thành Phật của Đức Di Lặc.
Thế nên, mong chờ thời
đại của Đức Di Lặc là mong chờ một xã hội hài hòa, hài hòa vì xã hội đó vận hành
theo mười nghiệp thiện; một xã hội hòa bình vì có căn bản là đại từ đại bi; một
xã hội mà động lực không là sự mong cầu vật chất mà mong cầu tâm linh. Một xã
hội thông minh, một xã hội Duy thức, biết cái gì là giá trị tạm thời, cái gì là
giá trị vĩnh cửu. Một xã hội mà tất cả mọi lãnh vực của đời sống con người được
Phật hóa, vì xã hội đó trực tiếp có Phật.
Với người bình thường
như chúng ta, mỗi khi niệm Nam mô Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật là đã thấy
vui rồi, đã nối kết cuộc đời mong manh và long đong phiêu dạt của mình với Hy
vọng Vĩ đại của trái đất này rồi.
Thế nên, tượng Phật Di
Lặc, tượng Phật lớn nhất thế giới, cao gần gấp đôi tượng Nữ thần Tự do, sắp được
hoàn thành ở Ấn Độ. Với Việt Nam, hầu hết các chùa đều có tượng Đức Di Lặc. Và
chúng ta cũng có tượng Đức Di Lặc ở núi Cấm, Thiên Cấm sơn, lớn nhất châu Á. Sau
một thế kỷ 20 chiến tranh tang tóc, chia rẻ phân ly và kiệt quệ vật chất lẫn
tinh thần, người Việt Nam cần hy vọng để vươn lên. Và có hy vọng nào lớn hơn Hy
vọng của Đức Phật tương lai là Bồ tât Nhất sanh bổ xứ Di Lặc. Chẳng thế mà ở
miền Nam, nơi tận cùng của đất nước, cũng trong thế kỷ 20 có vài giáo phải tin
rằng Đức Di Lặc và hội Long Hoa sẽ xuất hiện ở vùng đất này.
Ngay cả những người
chưa phải Phật giáo, những phong trào khắp nơi trên thế giới bảo vệ trái đất
khỏi bị ô nhiễm, khỏi sự thay đổi khí hậu, bảo vệ sự đa dạng sinh học của trái
đất, bảo vệ ‘ngôi nhà trái đất’ chung cho tất cả chúng ta, xây dựng cho trái đất
và con người càng ngày càng tốt đẹp hơn, những người ấy đang sống trong niềm hy
vọng về một thế giới mới, phải chăng dù một cách vô thức, họ đang sống trong
niềm tin Di Lặc? Phải chăng mọi sự tiến bộ của con người và mọi lãnh vực hoạt
động của nó, dù vô tình hay hữu ý, đều là sự tiến bộ đến thời đại của Đức Di
Lặc?
Những người thực hành
Bồ tát hạnh, ‘Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh’ thì rõ ràng đang chuẩn
bị, đang tham gia vào công trình của Đức Di Lặc, tức là thời đại của Phật Di Lặc
và hội Long Hoa.
Niềm hy vọng đó, hạnh
phúc tối hậu của trái đất và con người, không biết từ đâu, do nhóm người nào, đã
từ lâu, đã thành truyền thống, được thể hiện nơi ngày mồng một Tết. Ngày mồng
một Tết là ngày “vía” của Đức Di Lặc.
Ngày mồng một Tết đã
thành sự gắn kết niềm vui và hy vọng an bình hạnh phúc của người Việt Nam cho cá
nhân, gia đình và xã hội, với niềm vui, sự an bình hạnh phúc của Đức Phật Đại Từ
Di Lặc và công cuộc giải thoát và giác ngộ cho chúng sanh của Ngài. Lễ Tết không
chỉ là sự gặp gỡ chúc lành cho nhau, vui vẻ ăn uống với nhau, cùng hy vọng với
nhau về một xã hội, một thế giới hòa bình và thịnh vượng, mà còn là dịp để thực
hiện các điều đó bằng cách rãi tâm Từ và nguyện sống theo Mười điều thiện để xây
dựng một xã hội hiền thiện như là điều kiện căn bản cho Đức Phật tương lai hạ
sanh.Tết không chỉ là sự kết nối, hài hòa giữa người với người, mà còn là dịp
thiêng liêng nhất để kết nối với bổn nguyện và công trình của Đức Phật Di Lặc
tương lai và thời đại vinh quang của Ngài. Mỗi lần Tết là chúng ta thêm một lần
in đậm sự cam kết thiêng liêng của Đức Di Lặc với số phận của trái đất này để
chúng ta sống đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn.
Trong những ngày lễ,
các ngày vía chư Phật, chư đại Bồ tát hiện nay của Phật giáo Việt Nam, có hai
ngày lễ lớn mang tầm vóc quốc gia là lễ Phật đản và lễ Vu Lan rằm tháng 7. Ước
mong rằng ngày lễ Đức Di Lặc, trùng hợp với ngày đầu năm mới, cũng được cử hành
trọng thể ở các chùa và tại nhà, phổ biến ra xã hội để thành một phong tục, một
ngày lễ lớn của xã hội.
Vì Đức Di Lặc là Đức Phật tương lai kế tiếp sắp
tới của chúng ta.