Hoang Phong
Gần đây một mẫu tin về một pho tượng Phật do người Đức
đánh cắp của Tây Tạng từ năm 1938 vừa được các khoa học gia phát hiện đã được
báo chí khắp thế giới đăng tải. Pho tượng được người Tây Tạng tạc vào thế kỷ XI
từ một khối thiên thạch vô cùng hiếm hoi đã rơi xuống địa cầu cách nay khoảng
10.000 năm đến 20.000 năm.
Mẫu tin nhỏ này được đưa lên một số trang web nhằm mục đích giúp những người
quan tâm về những thông tin Phật Giáo trên thế giới, thế nhưng thật hết sức bất
ngờ là lại có nhiều người đặc biệt chú ý đến sự kiện khá "kỳ thú" này.
Hầu hết đều thắc mắc về các chữ Vaisravana và Sambhala tức là tên gọi của pho tượng, tại sao hai chân của pho
tượng lại buông thõng mà không bắt tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền như
thường thấy, và đồng thời ý nghĩa của chữ Vạn là gì v.v..., Do đó người viết xin
mạn phép nêu thêm vài ghi chú nhỏ với hy vọng có thể giải thích những thắc mắc
này. Trước hết là một vài chi tiết về chữ Vạn.
Dấu hiệu chữ Vạn
Chữ Vạn tiếng Phạn là Swastika , là
một ký hiệu mang tính cách thần bí và tôn giáo, được tìm thấy từ 2.500 năm đến
3.000 năm trước Tây Lịch ở khắp nơi trên địa cầu, từ Đông sang Tây, từ Bắc Phi
(Ai Cập) đến nam Thái Bình Dương (Úc Châu) và cả Mỹ Châu. Tóm lại đây là một
trong số các dấu hiệu "tôn giáo" phổ biến và lâu đời nhất của nhân loại. Ở Á
Châu thì ký hiệu này đã từng được nhiều tôn giáo sử dụng, chẳng hạn như đạo
Ja-in, Ấn Giáo và Phật Giáo. Ngày nay dấu hiệu này vẫn còn
thấy nhan nhản khắp nơi, nhất là ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, v.v... Các "tôn
giáo mới" chẳng hạn như đạo Cao Đài, Phá Luân Công... cũng sử dụng ký hiệu này.
Theo Ấn Giáo thì chữ Vạn có hai ý nghĩa khác nhau tùy vào hướng quay của chữ
này: quay sang phải thì mang ý nghĩa một sự thăng tiến (Pravitti), quay sang bên trái thì sẽ biểu
trưng cho một sự hủy diệt (Nivriti). Thế nhưng việc xác định hướng
quay cũng rất dễ bị lầm lẫn, thí dụ cùng một chữ Vạn thế nhưng nếu căn cứ vào
góc nhọn hay vào đầu của mỗi nhánh của chữ Vạn để định hướng thì tất sẽ có hai
hướng quay trái ngược nhau (xem H. 1 và 2).
Tóm
lại chữ Vạn xuất hiện khắp nơi và thuộc vào nhiều nền văn hóa và sắc tộc khác
nhau, do đó ý nghĩa, cách hiểu và mục đích sử dụng của chữ này cũng rất phức tạp
và đa dạng. Theo truyền thống thì chữ Vạn của Phật Giáo, nếu căn cứ vào đầu mỗi
nhánh để định hướng thì sẽ quay theo hướng trái (xem hình trên ngực của pho
tượng). Thiết nghĩ chỉ cần ghi nhớ quy ước này cũng đủ, ít ra là có thể nhờ đó
để phân biệt chữ Vạn của Phật Giáo với chữ Vạn của Đức Quốc Xã, vì chữ Vạn của
Đức Quốc Xã quay theo hướng phải.
H.1 và 2: Cùng một chữ Vạn thế nhưng có hai cách giải thích
khác nhau về chiều quay tùy theo cách định hướng căn cứ vào đầu hay vào góc nhọn
của mỗi nhánh. Cách giải thích theo hình số 2 là cách thường thấy nhất và hướng
quay là chiều bên phải, chữ vạn trên ngực pho tượng có hướng quay bên trái.
H.3: Một số các kiểu chữ Vạn thuộc các truyền thống văn hóa, tín ngưỡng và địa
phương khác nhau.
Các vị thần linh Vaisravana và Sambhala có đúng là
các nhân vật biểu trưng bởi pho tượng hay không
Trước nhất có lẽ cũng nên xác định xem pho tượng có đúng là một pho tượng Phật
Giáo hay không. Có ba chi tiết chính mà trước nhất là về vầng hào quang trên đầu
pho tượng.
Phổ Diệu Kinh cho biết là sau khi đạt được Giác Ngộ thì trên đầu của thái
tử Tất-đạt-đa hiện ra một vầng hào quang rạng rỡ. Kinh Trung A Hàm (Majjhima
Nikaya, 26) kể rằng sau khi thành Phật thì Đức Phật đi đến thành Ka-thi (Kashi,
ngày nay là Vanarasi hay Ba-la-nại) để tìm lại năm vị đồng tu trước đây. Trên
đường có một vị sa-môn trẻ tuổi theo đạo Ja-in đi ngược chiều với Đức Phật và
bỗng để ý thấy trên đầu Ngài toả ra một vầng hào quang thật sáng, bèn lấy làm lạ
và hỏi Ngài là môn đệ của ai và tu tập theo Giáo Lý nào... Tóm lại vầng hào
quang là một biểu hiệu đặc thù của Phật Giáo và cũng đã được tạc nơi đầu của các
pho tượng Phật đầu tiên phát hiện vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Sau này
các tượng ảnh biểu trưng cho các nhân vật của một vài tôn giáo khác cũng thấy có
các vầng hào quang như thế và đấy cũng chỉ là một sự vay mượn của Phật Giáo. Chi
tiết thứ hai là chữ Vạn khắc trên ngực của pho tượng cũng cho biết đấy là một
pho tượng Phật Giáo. Chi tiết thứ ba là pho tượng đội một cái mũ tiêu biểu cho
các vị đại sư và thánh nhân Tây tạng, chi tiết này tất nhiên cho thấy đây là một
pho tượng Tây Tạng. Thế nhưng pho tượng biểu trưng cho nhân vật nào trong Phật
Giáo? Có đúng đấy là vị Vaisravana hay Jambhala
như trong bản tin do báo chí nêu lên hay không?
Vaisravana là tiếng Phạn, được dịch sang
tiếng Hán là Đa Văn Thiên Vương, còn gọi là Bắc Phương Thiên Vương, tức là vị Hộ
Pháp thứ nhất trong số Tứ Đại Thiên Vương, giữ vai trò trấn giữ phương Bắc.
H.1- Vaisravana Tây Tạng (Namthöse): ngồi trên lưng của một
con sư tử tuyết (thế kỷ XV, bảo tàng viện Guimet, Paris)
H.2 - Vaisravana Trung Quốc (Đa Văn Thiên Vương / Duo Wen Tian
Wang): tay phải cầm thương, tay trái cầm một bảo tháp. Các pho tượng thuộc vào
loại này rất thường thấy ở các ngôi chùa Trung Quốc.
H.3 - Vaisrarana Nhật Bản (Damon-ten): (chùa Todai-ji, thế kỷ
thứ VIII)
H.4 - Vaisravana Hàn Quốc (Damun Cheonwang): (chùa Pyochungsa,
gần thị trấn Miryang)
Vị
Vaisravana còn được gọi là
Jambhala hay Kubera (hai chữ này đều là tiếng Phạn), tiếng Tây tạng là
Namthöse, tiếng Nhật là Damon-ten,
tiếng Hàn Quốc là Damun Choenwang,
tiếng Thái là, Thao Kuwen). Khái niệm
về Tứ Đại Thiên Vương khá phổ biến tại các quốc gia trên đây. Người
Trung Quốc tạc tượng vị Vaisravana
dưới hình tướng của một thần linh thật oai phong, mặc áo giáo, tay phải cầm một
cây thương hay đinh ba, tay trái cầm một bảo tháp nhỏ tượng trưng cho trọng
trách bảo vệ Đạo Pháp của mình. Tại các nước khác vị này được biểu trưng với một
vài nét thay đổi nhỏ, thế nhưng tuyệt nhiên không có một vị nào giống với pho
tượng tạc bằng thiên thạch vừa được khám phá ở Đức, nói một cách khác là pho
tượng này không hội đủ các tiêu chuẩn cần thiết để xác định đấy là vị
Vaisravana.
Như
vậy thì pho tượng mà người Đức đã đánh cắp của Tây Tạng vào năm 1938 biểu trưng
cho nhân vật nào trong Phật Giáo? Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi
chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một
chân gập lại và một chân buông thõng. Tiếng Phạn gọi tư thế này là
bhadrasana, một tư thế sẵn sàng để đứng lên. Đấy là cách biểu trưng rất độc
đáo cho Phật Di Lặc. Đôi khi các pho tượng Di Lặc cũng được trình bày ngồi trên
ghế hay trên bục với hai chân buông thẳng, và các học giả Tây Phương thì thường
gọi đấy là "cách ngồi của người Tây Phương" trên một chiếc ghế. Thật vậy, Phật
Di Lặc là vị Phật tương lai luôn được tạc trong tư thế ngồi chờ với hai chân sẵn
sàng đứng lên để cứu độ chúng sinh. Có rất ít các pho tượng Di Lặc được tạc
trong tư thế đứng thẳng, chỉ có một vài pho tượng được tìm thấy trong vùng
Gandhara (thế kỷ thứ II và III) thuộc Pakistan ngày nay, hoặc một số nhỏ các pho
tượng Di Lặc Thái Lan là được tạc trong tư thế đứng thẳng. Cách tạc tượng biểu
trưng cho một sự "chờ đợi" và đồng thời cũng "sẵn sàng" đứng lên này cũng là một
sự sáng tạo độc đáo của nghệ thuật tạo hình Phật Giáo.
Vài hình ảnh Phật Di Lặc
(Các hình tượng Phật Di Lặc đều được tạc ngồi trên ghế hay
trên bục với đôi chân buông thõng, hoặc một chân co một chân duỗi trong tư thế
sẵn sàng đứng lên. Xin lưu ý là Phật Di Lặc Trung Quốc trong các thời cận đại đã
bị biến dạng và trở thành khá giống với một ông Thần Tài, xin xem hình 6 và 7.
H.1- Phật Di Lặc Sarnath - Ấn Độ, thế kỷ thứ V; H.3- Phật Di Lặc Hàn Quốc; H.6-
Phật Di Lặc Trung Quốc, hang Vân Cương, thế kỷ thứ V-VI; H.7- Phật Di Lặc tạc
trong vách núi ở Feilai Feng, Hàng Châu)
Tóm
lại có thể kết luận rằng pho tượng bằng thiên thạch của Tây Tạng tạc vào thế kỷ
XI là một pho tượng Di Lặc. Một số các chi tiết khác cũng củng cố thêm cho sự
xác định này, chẳng hạn như vầng hào quang trên đầu và chữ Vạn trên ngực chỉ
được sử dụng để biểu trưng cho các vị Phật và các vị Bồ-tát đắc đạo và không bao
giờ được dùng để chỉ định các vị thần linh. Bàn tay phải của pho tượng được tạc
để ngữa, đấy là cách biểu trưng cho sự bố thí và lòng từ bi, bàn tay trái thì
cầm một cái bình đựng nước "cam lồ" dùng để cứu độ chúng sinh. Hai trọng trách
này không thuộc vào bổn phận của các vị thần linh như Tứ Đại Thiên Vương chẳng
hạn.
Một vài cảm nghĩ thay cho lời kết
Theo truyền thuyết thì Đức Di Lặc chỉ là một vị Bồ-tát sắp thành Phật đang ngụ ở
cung trời Đâu Suất (Tusita) chờ đúng lúc để nhập thế hầu cứu độ chúng sinh. Thế
nhưng đến khi nào thì Phật Di Lặc sẽ hiện xuống thế gian này? Kinh sách không
thống nhất về thời điểm ấy. Một số người cho rằng Phật Di Lặc sẽ hiện xuống địa
cầu khoảng 30.000 năm sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tịch diệt, một số khác
thì lại nghĩ rằng phải chờ đến 3 tỉ 920 triệu năm. Con số này có thể là hơi
phóng đại, bởi vì tuổi của địa cầu theo các nhà khoa học cho biết là 4,55 tỉ năm
và con người ngày nay chỉ mới được hình thành khoảng hai triệu năm trở lại đây
mà thôi. Vậy nhân loại có hội đủ "kiên nhẫn" để chờ đợi thêm … gần 4 tỉ năm nữa
để có thể trông thấy Đức Phật Di Lặc hay không?
Tất
cả đều vô thường, mọi hiện tượng luôn chuyển động, trong một tương lai gần hay
xa nhân loại rồi cũng sẽ không còn nữa, địa cầu này cũng sẽ bị tàn phá, tài
nguyên sẽ kiệt quệ hay biết đâu cũng có thể sẽ nổ tung trước thời hạn quá dài
trên đây? Cách suy nghĩ như thế thiết nghĩ cũng không đến đỗi nào quá yếm thế mà
chỉ là một cảm nghĩ đối với hiện thực của một người hiểu được lời Phật dạy là
gì.
Các
nhà khoa học cho rằng một khối thiên thạch vô cùng hiếm hoi đã rơi xuống địa cầu
cách nay khoảng 10.000 đến 20.000 năm. Trên phương diện địa chất học thì quả
thật hết sức khó để định tuổi chính xác một khối thiên thạch đã rơi xuống địa
cầu vào lúc nào. Thế nhưng người ta có thể biết đích xác là khối thiên thạch ấy
đã được tạc thành một pho tượng của Phật Di Lặc vào thế kỷ XI.
Đức
Đạt-lai Lạt-ma rời Tây tạng vào năm 1959 và đã nêu cao Đạo Pháp trên toàn thế
giới. Pho tượng Di Lặc được tạc bằng thiên thạch, chân cao chân thấp đã từng
ngồi chờ từ 1.000 năm nay ở một nơi nào đó trên đất Tây Tạng và đã không còn
ngồi chờ thêm nữa mà lại vừa mới xuất hiện giữa xã hội loài người trong thế giới
Tây Phương. Có phải đây là một biến cố mới đánh dấu một giai đoạn mới cho xứ Tây
Tạng và mang lại một niềm hy vọng nào đó cho những người Phật Giáo nói chung hay
không?
Hoang Phong
Bures-Sur-Yvette,
08.10.12