hay sự
hồi sinh của Phật giáo Á châu
Hoang Phong (dịch và ghi chú)
Dưới đây là một bài phỏng vấn trong chương trình Phật giáo
hàng tuần của Đài truyển hình chính phủ Pháp (đài France 2), phát hình vào ngày
chủ nhật 02.12.2007. Buổi phát hình này mang chủ đề « Ánh Hào Quang của
Phật » (Lumières du Bouddha). Nữ ký giả của chương trình là cô Aurélie
Godefroy phỏng vấn hai Ông Olivier Germain-Thomas và Christophe Boisvieux. Xin
được nhắc thêm là chương trình Phật giáo trên đài truyền hình Pháp mang tên là
« Trí tuệ Phật giáo » (Sagesses bouddhistes), vừa được Tổng hội Phật
giáo Pháp ăn mừng sinh nhật 10 năm.
-
Cô A. Godefroy, nữ ký giả phụ trách
chương trình
-
Ông O. Germain-Thomas (1943…), nhà văn,
đã xuất bản nhiều sách về Phật giáo, đồng thời cũng là ký giả và phụ trách thiết
kế nội dung các chương trình phát thanh của đài Văn Hoá Nước Pháp (France
Culture)
-
Ông C. Boivieux (1960…), ký giả và nhiếp
ảnh gia, từng chu du khắp thế giới, nhất là các nước Á châu, kể cả Việt Nam, đã
xuất bản nhiều sách và hình ảnh về các chuyến du hành của ông, tác phẩm mới nhất
là « Bénarès-Kyoto » cũng vừa trúng giải Renaudot năm 2007.
Sau đây là phần thoát dịch buổi phỏng vấn:
Aurélie Godefroy: Phật
giáo ngày nay gồm khoàng 350 triệu tín đồ và đại diện cho một tôn giáo đứng vào
hàng thứ tư của nhân loại (1). Từ những năm gần đây, Phật giáo cho thấy những
đổi mới sâu xa, tại Âu châu này cũng như trên phần lục địa mà Phật giáo đã phát
sinh :
tức Á châu. Và chính hôm nay đây, chúng ta sẽ dừng
lại với nhau trên phần đất đó của địa cầu. Chúng ta hiểu rằng Phật giáo đã hình
thành trên lãnh thổ Ấn độ. Nhưng rồi tôn giáo ấy đã phát triển như thế nào, đã
trở nên phong phú ra sao khi hội nhập với những ảnh hưởng đa dạng khác, qua
chuỗi dài của nhiều thế kỷ ? Những truyền thống chính là gì ? Làm thế nào để xác
định những truyền thống ấy ? Những lý do quan trọng nào đã tạo ra sức mạnh thu
hút của Phật giáo tại Á châu, mãi cho đến ngày hôm nay ? Chúng ta sẽ bàn thảo về
những vấn đề trên đây với hai vị khách của chương trình là hai ông : Olivier
Germain-Thomas và Christophe Boivieux.
(Quay sang phía ông Christophe Boivieux). Xin chào ông
Chistophe Boivieux, Ông là nhà báo và nhiếp ảnh gia. Tôi hiểu rằng ông đã chu du
trên khắp thế giới từ hai mươi năm nay. Đặc biệt, ông đã chu du nhiều trên các
phần đất Á châu. Ông hợp tác với nhiều tạp chí và ông đã cho xuất bản một số
sách về du lịch. Xin cảm tạ ông vô ngần đã đến với chúng tôi.
(Quay sang ông Olivier
Germain-Thomas). Xin chào ông Olivier Germain-Thomas.
Tôi được biết ông là một người thật nổi tiếng, đã thiết kế các chương trên đài
phát thanh “Văn Hoá Nước Pháp”, và cũng vừa đoạt giải Renaudot với tác phẩm mới
nhất của ông, mang tựa đề “Bénarès-Kyoto” (từ Ca-tì-la-vệ đến Kyoto)
do nhà xuất bản Rocher ấn hành. Xin cám ơn ông đã đến với
chúng tôi. Và trong dịp này hai ông đến để giới thiệu quyển sách mới phát
hảnh do hai ông viết chung có kèm nhiều hình ảnh, sách mang tựa đề là “Ánh hào
quang của Phật” (“Lumières du Bouddha”), do nhà xuất bản Lodi ấn hành.
Đây là một quyển sách hết sức đẹp, phác họa lại sự hình thành và quá trình tiến
hoá của Phật giáo tại Á châu, đúng với tình trạng như ngày nay.
Để khởi sự, tôi muốn được mời Ông Olivier Germain-Thomas giải
thích cho biết Phật giáo phát sinh như thế nào tại Á châu, và đặc biệt là tại Ấn
độ.
O.GT. :
Trước hết, phải nói rằng Phật giáo là tinh anh của nước Ấn. Người ta thường quên
một điều là Phật giáo đã từng tồn tại suốt mười lăm thế kỷ trên đất Ấn, và vì lý
do Ấn độ ngày nay chỉ còn dưới 1% dân chúng theo Phật giáo và Phật giáo được đón
nhận vào phương Tây lại là Phật giáo Nhật bản và Tây tạng, do đó người ta đã
không còn nhớ đến cái lò hun đúc ra Phật giáo. Cái lò ấy là nền tảng của các tư
tưởng triết học, là tinh thần và kinh nghiệm tâm linh của cả nước Ấn. Như người
ta đã biết, Phật giáo hình thành vào thế kỷ thứ V hay thứ VI trước Giê-su, trong
vùng cao nguyên nằm giữa Hy-mã-lạp sơn và thung lũng sông Hằng. Khoảng thế kỷ
thứ III trước Tây lịch, nhờ hoàng đế A-dục, Phật giáo bành trướng khắp nơi. Và
xin đừng quên là Phật giáo đã từng lan
rộng về phương Tây, tức là các vùng ngày nay thuộc vào các quốc gia như
A-phú-hãn, Pakistan, Cachemire.
A.G. : Vậy có
phải việc hoàng đế A-Dục quy y Phật giáo nhất thiết là một yếu tố quyết định cho
việc bành trướng Đạo Phật hay không ?
O.GT. : Không thể
biết chắc được. Nhưng dù sao, chính vua A-dục là người mong
muốn Phật giáo được phát triển. Dù ít hay nhiều, ông vẫn còn là một người
Ấn độ giáo, bởi vì dù sao phần đông dân chúng trong nước vẫn còn giữ đạo
Bà-la-môn. Ông gởi sứ giả đi khắp nơi, từ Đông sang Tây và cả về phương Nam.
Phương Nam gồm các quốc gia như : Tích lan, Miến điện, các nước Đông nam Á. Về phía Tây,
qua vùng Cachemire, và dọc theo con đường tơ lụa, Phật giáo tiếp xúc thường hơn
với Trung quốc và lan rộng vào phần đất này, sau đó đến lượt Triều tiên, rồi
tiếp đến là Nhật bản, Tây tạng, Mông cổ, người ta đã biết rõ về giai đoạn lịch
sử này. Nhưng nhiều khi người ta lại quên một chuyện khác là các trường phái
chính của Phật giáo, dù đấy là Phật giáo Nguyên thủy Theravada, hay sau đó là
Đại thừa Mahayana, và tiếp theo
là Tan-tra thừa (Mật tông), tất cả đều phát xuất từ Ấn độ. Tan-tra thừa đã xuất
phát từ đất Ấn có nghĩa là nền Phật giáo bành trướng ở Tây tạng dù thừa hưởng
tinh anh của các truyền thống Tây tạng, nhưng các nguyên lý triết học của nền
Phật giáo ấy đều đã được du nhập từ Ấn độ. Quả thật đây là một biến cố tuyệt vời
đã xảy ra suốt một ngàn năm trăm năm trên đất Ấn, và vẫn còn tiếp tục cho đến
ngày nay, đó là những gì hết sức lạ thường.
A.G. : Thưa ông
Christophe Boisvieux, ông có thể cho biết thêm một cách chính xác hơn Phật giáo
từ Ấn độ đã lan rộng ra như thế nào ?
C.B. : Thưa vâng,
từ lúc đầu, khi Đức Phật thuyết giảng, chưa có chữ viết trong vùng thung lũng
Sông Hằng. Đấy chỉ là cách truyền khẩu. Và vào thời đại Thiên chúa giáo, các văn bản mới được ghi chép và
truyền tụng, từ thầy đến đồ đệ (2).
Đây là một nguyên tắc thật căn bản. Trong một số các đường hướng tu tập Phật
giáo, đặc biệt tôi muốn nêu lên trường hợp của Phật giáo Tây tạng, đối với nền
Phật giáo này, sự truyền thụ từ thầy sang đồ đệ thật là chủ yếu.
Về sau, một số các vị thầy đã đảm trách vai trò chủ yếu trong việc bành trướng
Đạo Pháp. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp Trung quốc, tức nghĩ đến ngài
Bồ-đề-đạt-ma đã mang Đạo Pháp vào Trung quốc từ thế kỷ thứ VI (3). Và sau
đó, một vị thầy khác đã tạo được một tầm ảnh hưởng quyết định cho Tây tạng vào
khoảng thế kỷ thứ VII : đó là vị thầy đầy mầu nhiệm tên
là Liên Hoa Sinh (Padmasambhava). Chính sự rạng rỡ của các vị thầy như trên đây
đã giúp cho Phật giáo lan
rộng.
A.G. : Ta
có thể nói rõ hơn một chút để giải thích về ảnh hưởng địa lý trong sự bành
trướng của Phật giáo hay chăng ? Theo tôi hình như có hai cửa ngõ khác
nhau ?
C.B. : Đúng vậy,
thứ nhất là con đường tơ lụa đi về phương Bắc, tôi muốn nói là con đường của các
đoàn du mục xuyên qua sa mạc, tuy đây là con đường thương mại, nhưng đồng thời
cũng là con đường của tín ngưỡng. Chính bằng cửa ngõ này Phật
giáo đã đến với Trung quốc trước hết, sau đó từ Trung quốc đến Triều tiên.
Triều tiên lại tiếp tục trở thành đầu cầu cho Phật giáo lan
truyền vào Nhật bản. Tiếp theo, về phương Nam lại có con đường hàng hải, nối
liền một trong những trung tâm quan trọng của Phật giáo là Tích lan với các nước
Đông Nam Á, như Thái lan, Miến điện, Cam-pu-chia. Phật giáo còn
lan
tràn sang cả In-đô-nê-xia, nhưng ngày nay đã suy tàn. Trước đây Phật giáo hết sức phát triển trên phần đất này.
A.G. : Để có thể
nắm vững hơn về Phật giáo trong tình trạng hiện nay, có thể chúng ta cần nói
thêm về lịch sử Phật giáo và ba truyền thống chính là Phật giáo Nguyên thủy, Đại
thừa và Kim cương thừa. Ông có thể giải thích thêm vài nét chính về các truyền
thống ấy hay chăng ? Ta hãy bắt đầu với Phật giáo
Nguyên thủy ?
O.GT : Phần cốt lõi
phát xuất từ nước Ấn, nhưng sau đó chính khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật
giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác. Thật ra, những dị biệt
giữa các học phái, hay là giữa các thừa Phật giáo khác nhau, chỉ vỏn vẹn liên
quan đến hai điểm : thứ nhất là truyền thống văn hoá
của quốc gia mà Phật giáo phát triển, thứ hai là các văn bản mà các vị thầy đã
sử dụng. Đối với trường hợp Phật giáo Nguyên thủy, các vị thầy căn cứ vào các
văn bản tiếng Pa-li. Đối với Phật giáo Đại thừa, các văn bản sử dụng là tiếng
Phạn. Và đối với Phật giáo Tan-tra, các văn bản lúc đầu là tiếng Phạn, nhưng
ngày nay là tiếng Tây tạng. Nói như thế để hiểu rằng khi du hành trong các xứ
đó, nếu có hai vị thầy gặp nhau, và khi họ gạt ra ngoài những tập quán văn hoá,
thì cả hai đều nhận ra rằng họ đã cùng xuất phát từ một cội nguồn chung, đây quả
thật là những gì hết sức tuyệt vời (4). Tuy thế, người ta vẫn
phải thừa nhận trong thừa Tan-tra có nhiều điều thần bí, trong khi đó, thiền
tông Zen chẳng hạn, lại tượng trưng cho những gì đơn giản nhất. Nhưng khi
đã tu tập bằng thiền định, người ta cũng có thể hình dung bên trong mỗi người
chúng ta những gì hiển hiện lên đều rất gần với nhau.
A.G. : Ông
Christophe Boisvieux, ông cũng biết khá nhiều về Phật giáo Nguyên thủy, vậy ông
có gì để trình bày thêm hay không ?
C.B. : Theo tôi
thấy những gì lý thú và gây nhiều ấn tượng nhất trong Phật giáo Nguyên thủy,
chính là sự kết hợp giữa tăng lữ và thế tục : tăng lữ không thể tồn tại nếu
không có thế tục, toàn thể xã hội thế tục phục vụ cho tăng lữ, nhất là các phật
tử cúng dường hàng ngày cho các nhà sư, đây là một giới hạnh được ghi chép từ
những lời giảng huấn của Phật : một nhà sư, hay một tỳ kheo, phải tự mình khất
thực. Giới hạnh này không thấy khuyến khích trong các truyền thống khác.
Tôi nghĩ đến trường hợp của Kim cương thừa, đến Phật giáo Tây tạng chẳng hạn.
Nhất định là có việc cúng dường cho tăng lữ, nhưng không phải dưới hình thức như
trên đây. Cách cúng dường trên đây là một tập quán đã ăn sâu vào đời sống thường nhật, quả là những cử chỉ tuyệt
đẹp. Thật hết sức xúc động khi nhìn thấy, vào buổi sớm tinh
sương, các tín đồ đi chân đất để tỏ sự cung kính, đứng đợi trước ngưỡng cửa, chờ
những nhà sư đi ngang để cúng dường thực phẩm.
A.G. : O.GT
: Ông có thể cho chúng tôi biết các điểm đặc thù của Đại thừa hay chăng và
nếu có thể, cả về Kim cương thừa nữa, Kim cương thừa có vẻ như là sự tiếp nối
của Đại thừa ?
O.GT. :
Điểm mới mẻ và nổi bật nhất của Đại thừa là sự xuất hiện của các vị Bồ-tát, đó
là những sinh linh đã, hoặc có đủ khả năng để đạt được Phật tính, có nghĩa là
thể dạng của Phật, nhưng họ lưu lại làm người để hướng dẫn kẻ khác trên đường
đưa đến Giác ngộ và chấm dứt khổ đau. Vì thế, so với Phật giáo
Nguyên thủy, đây là một hình ảnh mới được xuất hiện thêm. Nói như thế,
nhưng người Phật giáo Đại thừa sẽ giải thích ngay cho chúng ta biết là chính Đức
Phật đã thuyết giảng về Đại thừa trên đỉnh Linh Thứu, nhưng những lời thuyết
giảng ấy được giữ bí mật (5), vì lẽ những người Phật giáo Đại thừa sẽ không chịu
nhận là Phật giáo Tiểu thừa có trước. Đây chỉ là những tranh
luận giữa các học phái có thể bỏ qua dễ dàng. Dù sao
chăng nữa, trên bình diện tổng quát, người ta có thể bảo rằng hầu hết những biểu
tượng trung gian là các thần linh, lần lượt được xuất hiện khi bước vào Đại
thừa, và nhất là khi bước vào Kim cương thừa. Tuy nhiên, trong Đại thừa
vẫn có những đường hướng tu tập hết sức đơn giản : đó
là Thiền học. Thiền học xuất phát từ cách tu thiền trong Phật giáo gọi là định
(dyana), từ đó phát sinh Thiền tông ở Trung quốc và học phái Zen ở Nhật bản, và
cũng chính trong Thiền tông các biểu tượng trung gian trở nên kém quan trọng
hơn, bởi vì phần chính yếu là đi tìm thực tính bên trong của mỗi người. Như quý
vị thấy, tất cả những thứ này khá phức tạp, nhưng phần cốt yếu như đã nói trên
đây, là những gì truyền thụ từ thầy đến đồ đệ, đó là những gì hệ trọng hơn tất
cả những biểu tượng bên ngoài.
A.G. : Để bổ túc
cho buổi phát hình này, hiện nay người ta đang chứng kiến tình trạng thăng tiến
hay là thụt lùi của Phật giáo, tùy theo từng quốc gia, chẳng hạn như Hàn quốc ?
C.B. : Tại Hàn
quốc, đúng ra là đang thoái lùi. Các nhà truyền giáo Phúc âm đã thực hiện những
cố gắng thật lớn lao trong việc truyền giáo, dù rằng
Phật giáo vẫn rất sinh động và giữ được truyền thống. Trái
lại, tôi nghĩ rằng cái nắp vung úp lên các xứ cộng sản đang được hé mở dần dần,
và ta thấy những xứ như Trung quốc ngày nay đang đổi mới thật quan trọng, nếu
tôi có thể nói như thế, người ta thấy những ngôi chùa chật ních người.
Và rồi, thật là kỳ thú khi trở lại những gì mà ông bạn Olivier vừa trình bày.
Ngay trên đất Ấn, và từ khi nước này dành được độc lập, tuy rằng vẩn còn là
thiểu số, đã có hàng loạt người thuộc giai cấp cùng đinh trở về với Phật giáo.
Mỗi năm, nhiều chục ngàn người thuộc giai cấp bần hàn xin quy
y tập thể, họ muốn thoát ra khỏi hệ thống phân chia giai cấp muôn đời của họ.
Chính đó là nguồn gốc của sức mạnh Phật giáo, sức mạnh đó đã làm nổ
tung
cả hệ thống hết sức gò bó và chai cứng của hệ thống giai cấp, sức mạnh đó là sức
mạnh của giải thoát. Chính như vậy, ngày nay người ta lại tìm
thấy trên đất Ấn sự hồi sinh đó của sức mạnh Phật giáo.
A.G. : O.GT
:
Để kết thúc buổi phát hình hôm nay, tôi nghĩ rằng ông có một thí dụ hùng hồn,
đó là trường hợp của Trung quốc ?
O.GT. : Vâng, tôi đã
đi khắp Trung quốc, bằng xe hỏa hoặc bằng xe ô tô chở khách, và tôi thường đến
viếng những ngọn núi thiêng liêng, và rồi tôi đã đến được một hòn đảo nhỏ, gọi
là Pu-ko-chan, có thể nói là Núi Athos (6) thu nhỏ, nằm ngoài khơi của Thượng
hải, đi tàu phải mất một đêm. Hòn đảo hoàn toàn dành riêng để
thờ một vị Bồ tát biểu hiện bằng một hình ảnh nữ giới (7). Tôi thấy hàng
ngàn phật tử, đàn bà, trẻ con, thanh niên, thiếu nữ, kéo nhau đi bộ hay quỳ
xuống đất và đi bằng hai đầu gối, dọc theo con đường thật dài đưa lên ngôi chùa
trên đỉnh của hòn đảo, để lễ Phật, nhất là để đãnh lễ vị Bồ tát với gương mặt nữ
giới. Những gì ngoạn mục nhất, chính là nghĩ đến ngày hôm nay,
theo những con số mới nhất, Trung quốc có 10% người theo Phật giáo. Nếu
như Phật giáo có thể trở lại như là một thứ gì thật thiết yếu cho Trung quốc,
thì nhất định bộ mặt của Á châu, và kể cả thế giới nữa, rồi sẽ hoàn toàn đổi
mới. Vậy, chính nơi đó, sẽ xảy ra một thứ gì hết sức quan hệ,
và dù sao đi nữa đấy cũng là một trường hợp vô cùng phấn khởi.
A.G. : Xin vô
vàn cám ơn hai ông đã đến với chúng tôi hôm nay.
________________
Ghi chú của người dịch:
1- Cho đến đầu thế kỷ XX, Phật giáo là tôn giáo lớn
nhất của nhân loại. Đầu thế kỷ XXI, Phật giáo tụt xuống hàng thứ
tư.
2- Điều này không được đúng lắm. Tiếng Phạn cổ đã có
từ thế kỷ XIV trước Tây lịch, bộ kinh Rig Veda (bộ kinh thứ nhất trong bốn bộ
kinh của Ấn độ giáo) viết bằng tiếng Phạn được soạn thảo vào năm 3 900 trước Tây
lịch. Những lời giảng huấn của Phật được vua A-dục sai khắc vào các trụ đá và
bia đá từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch.
Theo truyền thống xưa ở Ấn độ, những
gì truyền khẩu mang tính cách thiêng liêng, sinh động và mầu nhiệm, khác hẳn với
những gì lưu giữ dưới dạng chữ viết. Trong Ấn độ giáo cũng thế, các bộ kinh cũng phải học thuộc lòng.
Đối với Phật giáo, qua nhiều thế kỷ, những lời giảng của Phật được học thuộc và
truyền khầu cho nhau, từ cha đến con, từ thầy đến trò, từ thế hệ này đến thế hệ
khác. Vì thế phần lớn kinh Phật rất dài, lập đi lập lại liên
tục, mỗi câu có khi chỉ thay một chữ, mục đích cho dễ nhớ. Kinh còn viết ở dạng thể thơ hoặc kệ để dễ học thuộc lòng. Chuông mõ đánh nhịp cũng là một phương tiện giúp trí nhớ khi tụng
niệm.
Hình thức truyền khẩu vẫn còn giữ đến ngày nay trong Tan-tra
thừa (Mật tông).
Có giả thuyết cho rằng các lời giảng
của Phật đã được ghi chép vào kỳ kết tập Đạo Pháp lần thứ hai sau khi Phật tịch
diệt, nhưng không có tài liệu cụ thể nào chứng minh cho giả thuyết này.
3- Điều này không được đúng lắm, Phật giáo đã du nhập
vào Trung quốc từ thế kỷ thứ I. Ngài Bồ-đề-đạt-ma chỉ đem Thiền Ấn độ vào Trung
quốc.
4- Đúng vậy, đối với tất cả các tông phái và học phái
Phật giáo, chưa hề có những cuộc tàn sát lẫn nhau hay chiến tranh triền miên, kể
cả những hiềm khích hay hận thù, dù ở cấp bậc nhỏ cũng vậy. Người trong tất cả
các tông phái đều là con của Phật, người phật tử chân chính đều ý thức được rằng
tất cả chúng sinh đều sống trong vô minh, cái vô minh dầy đặc của ta chưa chắc
đã sáng hơn cái vô minh u mê của kẻ khác, giúp nhau chưa đủ, ta đâu có xem cái
vô minh của ta cao hơn, đúng hơn và trội hơn cái vô minh của kẻ khác.
Đây là một đặc thù của Phật giáo mà ngưởi ta thường “quên”, (xin được phép mượn
chữ “quên” do hai vị khách được phỏng vấn đã dùng đến trên đây).
5- Kinh điển Đại thừa bằng tiếng Phạn xuất hiện vào đầu
thế kỷ thứ I trước Tây lịch, kinh điển tiếng Pa-li xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ
I trước Tây lịch, sự chênh lệch rất ít, do đó không thể nói Tiểu thừa hay Đại
thừa xuất hiện trước. Theo truyền thống, Phật giảng tùy theo
xu hướng, trình độ và năng khiếu của từng người hay từng nhóm người nghe giảng.
Kinh sách Tiểu thừa ghi chép những buổi giảng đông đảo có tính cách đại chúng,
trong khi đó kinh sách Đại thừa ghi chép những buổi thuyết giảng
thu hẹp hơn.
6- Athos là một vùng núi linh thiêng ở Hy lạp, được
thành lập vào thế kỷ thứ X với ít nhiều tự trị, gồm các tu viện thuộc Chính
thống giáo. Đặc điểm của nơi này là cấm kỵ mọi sinh vật giống
cái, trừ gà mái vì gà mái cho trứng nuôi các vị tu sĩ.
7- Tức là Quán thế âm Bồ tát hay Phật Quan Âm.
Theo Chanhphap 05